Bộ máy tuyền truyền của chế độ cộng sản tại Việt Nam đã và đang tiếp tục tuyên truyền rằng ngày 30/4/1975 là ngày thống nhất đất nước.
Đồng thời
họ bác bỏ quan điểm rằng cộng sản miền Bắc đã dùng vũ trang bạo lực
cưỡng chiếm miền Nam. Họ cũng cho rằng việc dùng bạo lực để thống nhất
là tính tất yếu của lịch sử vì do phía miền Nam (VNCH) không chịu thống
nhất bằng Tổng tuyển cử.
Tôi khẳng định quan điểm của đảng CSVN là cực kỳ phản động và mang tính bạo lực.
Tại sao?
Theo
Hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết giữa đại diện Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và đại diện Liên hiệp Pháp, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và quân đội Liên hiệp Pháp phải đình chỉ chiến sự. Việt Nam tạm thời bị
chia thành hai vùng có giới tuyến là vĩ tuyến 17 trong 2 năm. Vĩ tuyến
17 được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời (tiếng Anh: military
demarcation line) chia Việt Nam làm hai vùng tập kết.
Chính
quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc Việt
Nam; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam
Việt Nam. Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) không ký
vào Hiệp định Genève với lý do hiệp định "gây chia cắt Việt Nam" và đẩy
Quốc gia Việt Nam vào thế nguy hiểm. Hiệp định Genève 1954 không nhắc
đến Quốc gia Việt Nam (État du Viêt Nam, State of Vietnam) hay Việt Nam
Cộng hòa (Republic of Vietnam) vốn chưa tồn tại (thành lập năm 1955).
Bởi
vậy, Chính phủ Quốc gia Việt Nam, sau này là Việt Nam Cộng Hòa(VNCH) và
toàn thể Nhân dân tại miền Nam VN không chịu sự ràng buộc bởi qui định
của hiệp định Geneve là hai miền sẽ tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất
đất nước vào năm 1956.
Do đó ngày
23 tháng 10 năm 1955, miền Nam tiến hành trưng cầu dân ý để bầu Tổng
thống và xóa bỏ chế độ phong kiến. Kết quả ông Ngô Đình Diệm đã đắc cử
với 98,2% số phiếu. Ngày 26/10/1955 Việt Nam Cộng Hòa được thành lập.Hoa
kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận VNCH.
Tháng 3 năm 1956, VNCH tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến. Tháng 10 năm 1956 ban hành Hiến pháp VNCH.
Trong
khi đó ở miền Bắc, dưới sự cai trị phát xít của đảng cộng sản Việt Nam,
trong 2 năm 1955 và 1956 Hồ Chí Minh và đảng CSVN tiến hành cuộc cải
cách ruộng đất một cách đẫm máu, gần 200,000 địa chủ bị giết hại và bị
tước đoạt tài sản.
Khi Hồ Chí Minh và đảng CS mị dân rằng đó là sai lầm thì 200 nghìn người đã bị giết. Hàng ngàn đình chùa đã bị phá hoại.
Một
điều mẫu thuẫn rất rõ ràng ở đây: Trong khi Nhân dân miền Nam tiến hành
cải cách dân chủ thông qua trưng cầu dân ý và Tổng tuyển cử để thể hiện
quyền làm chủ đất nước của mình. Thì khi đó người dân miền Bắc chịu sự
cai trị phát xít và bị giết hại của Hồ Chí Minh và đảng CSVN.
Sau
khi VNCH được thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1955, cùng với QH và Hiến
pháp 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính phủ VNCH và đa số người dân
miền Nam nhìn thấy rõ bản chất phản cách mạng, phản dân chủ và cực kỳ
phản động của Hồ Chí Minh, đảng và chế độ CS. Vậy nên VNCH chưa chấp
nhận Tổng tuyển cử bởi e ngại người dân lúc đó chưa đủ thông tin và sự
sáng suốt để nhận ra bản chất thật của Hồ Chí Minh và đảng CS.
Xin
nói đôi nét về Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tháng 1 năm 1946, Hồ Chí Minh
mời ông Ngô Đình Diệm ra gặp mặt tại Hà Nội, Hồ Chí Minh muốn mời ông
Ngô Đình Diệm tham gia chính phủ liên hiệp vì Hồ Chí Minh cũng ngưỡng mộ
tài năng và ý trí của ông Ngô Đình Diệm.
Sau
một vài cuộc nói chuyện và trao đổi với Hồ Chí Minh, ông Ngô Đình Diệm
đã nhận thấy bản chất của của Hồ Chí Minh và Việt Minh là tay sai của
cộng sản quốc tế. Nên ông Ngô Đình Diệm đã từ chối với lý do sẽ tiếp tục
chống Pháp tới cùng theo cách của ông nhưng không thể đứng chung với Hồ
Chí Minh và Việt Minh.
Năm 1955,
Đại sứ Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế giám sát Hiệp định Giơnevơ về đình
chiến ở Đông Dương từ Hà Nội sẽ đi vào Sài Gòn đến chào HCM, HCM nói với
vị Đại sứ: “Nhờ Đại sứ chuyển lời thăm hỏi của tôi tới ông Ngô Đình
Diệm”. Thấy vị đại sứ có vẻ ngạc nhiên, Hồ Chí Minh nói tiếp: “Ông Diệm
là người Việt Nam. Là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước. Ông ấy
yêu nước theo cách của ông ấy”.
Điều
này chứng tỏ mặc dù Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm đã là đối thủ
chính trị của nhau. Nhưng Hồ Chí minh vẫn phải kính trọng cách yêu nước
và tài năng của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Nhưng
đáng tiếc, đảng CSVN với tham vọng áp đặt sự cai trị của họ với toàn bộ
đất nước và dân tộc Việt Nam. Họ đã sử dụng xương máu cùa hàng triệu
thanh niên VN cho tham vọng của họ. Mà ở đây, Lê Duẩn là kẻ tội đồ số 1.
Lê Duẩn được mệnh danh là kiến trúc sư hàng đầu của cuộc chiến tranh
Việt Nam 1955- 1975.
Lê Duẩn sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907 tại Quảng trị.
Từ
năm 1946 đến năm 1954, ông ta là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, rồi Bí thư Trung
ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đảng bộ miền Nam tổ chức cuộc kháng chiến ở
Nam Bộ. Tại Đại hội lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, ông ta
được bầu vào Bộ Chính trị.
Từ năm
1954 đến năm 1957, ông ta ở lại miền Nam để lãnh đạo và tìm hiểu về
cuộc sống, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của người dân miền Nam
dưới chế độ VNCH và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vậy nên ông ta đi lại khắp
các tỉnh miền Nam.
Tháng 8 năm
1956, ông đã hoàn thành bản dự thảo “Đề cương cách mạng miền Nam” tại
căn nhà số 29 đường Huỳnh Khương Ninh, gần chợ Đa Kao (nay thuộc quận 1,
TP Hồ Chí Minh). Chứng kiến thực tế của người dân miền Nam, các chính
sách, pháp luật của VNCH và Tổng thống Ngô Đình Diệm với sự hỗ trợ của
Mỹ và các nước đồng minh. Lê Duẩn cho rằng “Chỉ có một con đường duy
nhất là dùng vũ trang, bạo lực để thống nhất. Ngoài con đường đó, không
còn con đường nào khác”
Ông ta
cho rằng, nếu để cho VNCH tự do phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,
quốc phòng trong hòa bình, thì tới một lúc nào đó VNCH sẽ trở thành
cường quốc và thống nhất miền Bắc trong hòa bình, đảng CS sẽ mất hết
quyền lực.
Vào cuối tháng 4 năm
1957, Lê Duẩn đã được Bộ Chính trị và HCM mời ra Hà Nội. Ông ra Hà Nội,
vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là
Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Trong
thời gian này, Lê Duẩn ra sức vận động và gây sức ép lên phe chủ hòa
trong đảng CS để sử dụng vũ trang, bạo lực cướp chính quyền VNCH.
Lê
Duẩn từng đe dọa, nếu Ban chấp hành trung ương và BCT không nhất trí
dùng vũ trang, bạo lực để cướp chính quyền VNCH thì đảng CS sẽ chia đôi,
phe chủ chiến sẽ về miền Nam dùng vũ trang, bạo lực để cướp chính
quyền.
Lê Duẩn cùng dùng 2 đại biểu miền Nam lúc đó là Phan Văn Đáng và Phạm Văn Xô để báo cáo và gây sức ép.
Cuối
cùng phe chủ hòa trong đảng CSVN đã lùi bước và Tháng 9/1960, tại Đại
hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông ta được bầu
vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Sau
đó Hồ Chí Minh già yếu và bị phe Lê Duẩn cô lập, ông ta chỉ còn là cái
bóng cho đảng CS tuyên truyền. Lê Duẩn và phe cánh thao túng điên cuồng
sử dụng xương máu của hàng triệu thanh niên miền Bắc cho cuộc chiến
huynh đệ Nam Bắc.
Kế quả cuối cùng, đảng CS đã chiến thắng cái thiện, nhân nghĩa, một nền dân chủ của VNCH vào ngày 30/4/1975.
Đó là khởi đầu cho sự bất hạnh, điều không may mắn, là bi kịch của đất nước và dân tộc VN.
Thực
tế 45 năm đã qua, đảng và chế CSVN đã tước đoạt các quyền con người về
tự do chính trị. Người dân không có quyền tự do ngôn luận, không có tự
do báo chí tư nhân, không có quyền tự do thành lập và hoạt động đảng
chính trị, không có quyền tự do biểu tình.
Kết
luận:
30 tháng 4 năm 1975 không phải là ngày thống nhất đất nước mà đó là việc đảng CSVN đã sử dụng vũ trang, bạo lực để cưỡng chiếm miền Nam.
Và khởi đầu cho bi kịch, sự bất hạnh của cả đất nước và dân tộc VN trong
45 năm đã qua, chưa biết đến bao giờ mới kết thúc bi kịch và sự bất
hạnh này.
Ls Nguyễn Văn Đài
30/4/2020
No comments:
Post a Comment