Chế độ công an trị được áp đặt tại miền Nam ngay từ sau 1975 (ảnh: Jean-Claude LABBE/Gamma-Rapho via Getty Images)
Muôn Nẻo Đường Đời
Di sản VNCH: Nền văn minh đã thắng “chế độ man rợ”!
/
Những ai sống ở miền Nam giai đoạn sau
30 Tháng Tư 1975 không thể nào quên những gì từng trải qua. Đó là những
chuỗi ngày không chỉ khốn khổ về vật chất. Biết bao người không thể cầm
được nước mắt khi chứng kiến cảnh hàng đống sách vở và băng đĩa nhạc bị
đốt. Một cuộc thảm sát văn hóa đã xảy ra.
Thế hệ nhạc sĩ tài ba trước năm 1975 và dòng nhạc Boléro Việt Nam.
Hình các nhạc sĩ từ trái sang: Hàng đầu: Châu Kỳ – Mạnh Phát – Trúc Phương – Lam Phương – Minh Kỳ – Hoài Linh. Hàng thứ 2: Lê Dinh – Anh Bằng – Hoàng Thi Thơ – Duy Khánh – Hoài An – Phạm Mạnh Cương. Hàng thứ 3: Tuấn Khanh – Y Vân – Dzũng Chinh – Anh Việt Thu – Lê Trực – Phạm Thế Mỹ.
Sau 30 tháng 4 – 1975, chính quyền mới gộp tất cả các bản nhạc thời VNCH gọi chung là “Nhạc Vàng”.
Nhìn tổng quát, nhạc trước 75 có nhiều thể loại:
Nhạc trữ tình mang nhiều âm hưởng của nhạc Tây phương, bàng bạc nét lãng mạn của nhạc tiền chiến (nhạc của Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Cung Tiến…) – Ca sĩ thống lĩnh dòng nhạc nầy là cô Thái Thanh và Anh Ngọc.
Nhạc thính phòng, êm dịu, nhẹ nhàng, phiêu lãng (nhạc của Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên…) là loại nhạc sở trường của ca sĩ Lệ Thu, Tuấn Ngọc…
Nhạc Trịnh Công Sơn chất chứa một chút triết lý, một chút phản chiến, rất được ưa chuộng với giọng ca cô Khánh Ly.
Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc.
Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo.
Lâu nay, trang sách Tập Đọc bậc tiểu học có tiêu đề là “NGOÀI ĐƯỜNG” như trong hình bên dưới đã được nhiều người chia sẻ, như là 1 tiêu biểu cho bài học làm người cho các thế hệ tuổi nhỏ ngày xưa.
Việt Nam hiện nay không có nền tân nhạc mà chỉ có “nhạc nói và nhạc chạy đua” nghĩa là “nhạc Việt Nam bây giờ toàn là những lời nói khi thì chậm, khi thì thật nhanh như chạy đua” chẳng có cung điệu trầm bổng du dương gì cả, và nhạc sĩ chỉ việc theo lời nói lên xuống hay mau chậm này mà viết nốt nhạc vào đấy là thành một bản nhạc, cho nên chẳng có một bản nhạc nào ra hồn cả, do dó không có ai thèm nhớ dù chỉ một câu.
Từ bao nhiêu năm nay Việt Nam không có một tình khúc nào làm cho người Việt hải ngoại cảm thông, nói huỵch toẹt ra là ngửi được cả.
Sau khi Nhạc Sĩ Nguyễn Ánh 9 phê bình “gào sĩ” Đàm Vĩnh Hưng không biết diễn tả bài hát mà chỉ biết gào hét nhố nhăng để câu khách,nay thì Nhạc Sĩ Lê Dinh lên tiếng về hiện tình tân nhạc Việt Nam mời các bạn xem dưới đây.
Đừng có nói rằng vì người Việt hải ngoại ghét cộng sản mà cho rằng cái gì cũng xấu, mà thực tế là chế độ nào sinh ra con người đó, nhạc Việt dưới chế độ độc tài, gian xảo, bất nhân, bán nước thì làm gì có tính nhân bản và tình cảm như Việt Nam Cộng Hòa trước đây
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa làNhân bản,Dân tộc, vàKhai phóng.
Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới
địa phương.
Ba nguyên tắc giáo dục là "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
Học đường miền nam Việt Nam đề cao ý chí DÂN TỘC, tình yêu quê hương, tinh thần quốc gia chồng giặc ngoại xâm: “tổ quốc, danh dự và trách nhiệm”.
Sắc thái học đường với bản chất nhân văn, lấy con người làm gốc, nhân nghĩa, hiếu hòa, biết ơn, vị tha, nhân cách làm người, phẩm hạnh con người, tình yêu nét đẹp quê hương, lịch sử dân tộc, giá trị truyền thống dân tộc, tinh thần cộng đồng phát triển tập thể, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm và phát huy nhân bản cá nhân toàn diện.
Triết lý “KHAI PHÓNG”, tiếp nhận khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ, vì nước vì dân... nhằm tiếp cận và hoà nhập với thế giới văn minh để phát triển giống nòi dân tộc.
Với vựa lúa miền nam trù phú, tiền viện trợ được sử dụng bồi đắp cho phát triển nên giáo dục NHÂN BẢN VÀ NHÂN VĂN nên học sinh đi học miễn phí vì học sinh là mầm mống tương lai của đất nước, nuôi nấng chí lớn và bảo vệ giống nòi dân tộc.
Học đường miền nam Việt Nam dạy con em chúng ta: “Tiên học lễ, hậu học văn.
Một chữ là thầy, nữa chữ cũng là thầy”.
Ai đã từng được sống thời này chắc chắn nuối tiếc một nền văn hoá NHÂN BẢN nơi học đường và những ai chưa từng được sống thì ước gì được hưởng một nền văn hoá đầy ấp TÌNH NGƯỜI VÀ DÂN TỘC.
Một buổi biểu diễn nhạc rock ngoài trời tại Sài Gòn hôm 29/5/1971.
AP
VHNT miền Nam trước 1975: Gìn giữ và đánh giá đúng
00:00/08:51
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số văn nghệ sĩ miền Nam
tiếp tục có những nỗ lực nhằm duy trì những giá trị của nền Văn học -
Nghệ thuật miền Nam mà từng có ý kiến cho là ‘độc hại, đồi trụy’ và từng
bị cấm đoán.
Đầu năm 2022, tôi bất ngờ đọc được bài viết “Níu Một Đời, Giữ Một Thời”
của tác giả Ban Mai, một nhà văn trẻ trong nước. Cô đang là giáo sư
giảng dạy về Khoa Học Công Nghệ và Hợp Tác Quốc Tế tại Trường Đại Học
Qui Nhơn
Mở đầu bài viết, tác giả đã vẽ lại bức tranh đen tối, kinh hoàng sau ngày 30.4.75:
“…phần
lớn người Miền Nam làm việc cho chính phủ Cộng Hòa đều bị tập trung cải
tạo. Cuộc sống của nhiều gia đình đảo lộn. Vì sau khi đổi đời, họ bị
thất nghiệp, nhiều người lâm vào cùng quẫn. Cảnh quan thành phố tiêu
điều xơ xác, thiếu lúa gạo khiến dân phải ăn độn bo bo và mì sợi.
Phải nói là bái phục bài thơ lạ kỳ này. Bài thơ được chia sẻ từ nhà nghiên cứu Dân tộc học và Việt học Đinh Trọng Hiếu ở Paris đăng trên “Khuôn Mặt Văn Nghệ”.
Không biết tác giả là ai, nhưng khi đọc bài thơ này ta vô cùng khâm phục tác giả của bài thơ, càng thêm yêu quý và càng phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt. Vậy mà có kẻ bày ra thứ trò cải tiến nhảm nhí và muốn phá hoại chữ nghĩa của bao thế hệ tổ tiên để lại.
Bây giờ ta hãy chiêm ngưỡng vẻ độc đáo của bài thơ này :
Sau
khi cưỡng chiếm Saigon, tập đoàn Cộng sản đã thực hiện chính sách đối
xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu
cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn. Một trong những thành phần
bị đọa đày thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt
cháy huống chi là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm
của quân cướp nước.
Bài
này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng
thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc
vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản
cho nửa nước thân yêu.
1- VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 1976)
Đỗ
Tú Tài 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và
Kịch Thơ. Di cư vào Saigon 1954 hành nghề dạy học. Đoạt giải Văn Chương
Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.
Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.
Trong tập truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại:
“Thầy
đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa
vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt
Thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như
thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như
người đồng thiếp.
Thành ra người Miền Nam chúng ta có toàn quyền ,có thể so sánh giữa "ngày nay" và "trước kia"
Khi mà ngày nay người ta cứ làm những trò "cải cách" ,đòi sửa này,chỉnh kia,bỏ nọ nhưng bản chất và cái gốc là cách dạy và chất lượng thì họ không đá động gì tới và cũng không có khả năng
Việt Nam Cộng hòa hồi xưa phổ cập giáo dục tiểu học, trẻ em đi học tại trường công miễn phí và có sữa uống miễn phí luôn,sách giáo khoa không là gánh nặng của con nhà nghèo vì rất rẻ và đời anh xài tới đời em chỉ có mấy cuốn
Từ lớp 6 trở đi thì học trò không được phổ cập. Tức lớp 5 sẽ thi tuyển vào lớp 5 trung học đệ nhứt cấp với những kỳ thi cực kỳ kinh khủng,chỉ lấy có 62% vào trường công,38% vào trường tư học hoặc có thể nghĩ học nghề
ANAHEIM, California (NV) – Tôi nhấn mạnh pê-đan
chiếc xe đạp cà tàng, cố đạp xe lên dốc cầu Trương Minh Giảng. Buổi
trưa, đoạn đường này rất đông đúc người xe qua lại, nhất là quãng ngã ba
Kỳ Đồng-Trương Minh Giảng (cũ).
Trời Sài Gòn nắng chói chang, nắng như đổ lửa. Cái nắng, nóng ập
xuống mọi người như cái chảo gang úp lên đầu vậy, khiến ai cũng muốn
chạy xe cho lẹ.
Cố Thi Sĩ Bùi Giáng. (1926-1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học danh tiếng của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng…Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn. Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam**Đánh cho Nam Bắc đọa đày
Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào,
Đánh cho chết mẹ đồng bào Miền Nam.
Đánh cho khoai sắn thành vàng,
Đánh cho dép lốp phải mang thế giày.
Đánh cho Nam Bắc đọa đày,
Đánh cho thù hận giờ này chưa tan.
Đánh cho cả nước Việt Nam,
Áo ôm khố rách, xếp hàng xin cho.
Đánh cho hết muốn tự do,
Hết mơ dân chủ, hết lo quyền người.
Đánh cho dở khóc dở cười,
Hai miền thống nhất kiếp người ngựa trâu.
Đánh cho hai nước Việt Tàu,
Không còn biên giới cùng nhau đại đồng.
Đánh cho dòng giống Tiên Rồng,
Osin, nô lệ, lao công xứ người.
Đánh cho chín chục triệu người,
Thành dân vô sản, thành người lưu vong.
Đánh cho non nước Lạc Hồng,
Tiến lên thời đại mang gông mang cùm.
Đánh cho cả nước chết chùm,
Đánh cho con cháu kh̉́ốn cùng mai sau.
Đánh cho bác, đảng, Nga, Tàu,
Hết quần hết áo thì tao ở truồng!
Thơ Bùi Giáng
(Nguồn sưu tầm trên internet của Blogger Nguyễn Lân Thắng)
***
Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào.
Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam. Đánh cho khoai sắn thành vàng, Đánh cho dép lốp phải mang thế giầy. Đánh cho Bắc đoạ Nam đày, Đánh cho thù hận giờ này chưa tan. Đánh cho cả nước Việt Nam, Áo ôm khố rách xếp hàng xin cho. Đánh cho hết muốn tự do, Hết mơ dân chủ hết lo quyền người. Đánh cho dở khóc dở cười, Hai miền thống nhất kiếp người ngựa trâu. Đánh cho hai nước Việt Tàu, Không còn biên giới cùng nhau đại đồng. Đánh cho dòng giống Tiên rồng, Osin, nô lệ, lao công xứ người. Đánh cho chín chục triệu người, Thành dân vô sản thành người lưu vong. Đánh cho non nước Lạc Hồng, Tiến lên thời đại mang gông mang cùm. Đánh cho cả nước chết chùm, Đánh cho con cháu khốn cùng mai sau. Đánh cho Bác Đảng Nga Tàu, Triệu dân nô lệ ngàn năm căm hờn !
Bùi Giáng
***
Bùi Giáng có điên không?
Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998). (Hình: Tuổi Trẻ)
Mỗi bài thơ là một số phận. Tôi đã theo dõi một số những bài thơ riêng lẻ của một thi sĩ, nhiều khi chỉ còn nhớ đến bài thơ đó mà không còn thấy cần thiết phải tìm hiểu toàn bộ tổng số thơ mà một thi sĩ đã sáng tác trước hay sau bài thơ đó.
Số phận của một bài thơ không hẳn là số phận của thí sĩ làm bài thơ đó, song không nhiều thì ít, người ta có thể tìm thấy một điều gì đó liên hệ tới người làm ra bài thơ đó.
Dư luận đang xôn xao về việc những bài học trong cuốn SGK Tiếng Việt hiện thời có những câu chuyện không thích hợp với tuổi lên 6, là những câu chuyện khó hiểu, hoặc dạy khôn lỏi, hoặc đôi khi là suồng sã.
FOUNTAIN VALLEY, California (NV) – Nữ danh ca Lệ Thu vừa qua đời vào lúc 7 giờ tối Thứ Sáu, 15 Tháng
Giêng, sau một thời gian bị nhiễm COVID-19, ái nữ của bà xác nhận với
nhật báo Người Việt.
Vì lý do riêng tư, ái nữ của danh ca không muốn nêu tên.
Nữ danh ca Lệ Thu là một trong những tiếng hát nổi tiếng nhất tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975. (Hình: Nguyễn Lập Hậu)
Trước đó, hôm 29 Tháng Mười Hai, 2020, ái nữ của nữ danh ca Lệ Thu
kể: “Mẹ tôi nhiễm COVID-19 và được đưa vào bệnh viện MemorialCare Orange
Coast Medical Center, Fountain Valley, khoảng ba tuần nay. Hiện nay,
tình trạng sức khỏe mẹ tôi khả quan hơn, đang ăn uống để hồi sức.”
Xin giới thiệu hai bài thơ về Sai gòn và Miền Nam Việt Nam (VNCH) không thể nào quên trong tâm trí đám học trò Miền Nam trước năm 1975 như bản thân tôi. Tôi nói “không thể nào quên” vì các Cô giáo, Thầy giáo bậc Tiểu học cho học trò học thuộc nằm lòng hai bài này để lên trả bài trong lớp học lấy điểm.
Có lẽ quý vị niên trưởng cũng không quên (nếu các vị còn tỉnh táo, chưa bị dính “Ao-dai-mơ?!”) hai bài thơ như vầy…
Ra đời dưới một ngôi sao xấu, đầu thai lầm thế kỷ, sinh bất phùng thời… Có ai đó đã viết về những năm tháng đầu đời của Nhạc sĩ Lam Phương như vậy.
Thế rồi cậu bé thiếu may mắn Lâm Đình Phùng (tên thật của Lam Phương) phải rời quê nghèo ở Rạch Giá, lên Sài-Gòn tìm nơi nương tựa ở nhà một người thân để được cắp sách tới trường, và chỉ vài năm sau đã trở thành Nhạc sĩ Lam Phương, ở tuổi 15. Và, sau hơn 60 năm sáng tác, đã dâng hiến cho đời trên 200 nhạc phẩm.
Dòng nhạc dồi dào, phong phú ấy đã được hàng triệu người nghe, ưa thích, trong suốt mấy thế hệ thính giả ở miền Nam Việt Nam, và đã đưa tên tuổi Lam Phương lên cao trong bộ môn âm nhạc Việt Nam.