- Nhạc sĩ Anh Bằng và nhạc sĩ Lê Dinh viết ca khúc "Giấc Ngủ 
Cô Đơn" vào năm 1963, mô tả nỗi buồn cô đơn của một thiếu phụ 
trẻ xa cách chồng vì anh tập kết ra Bắc ngay sau Hiệp định 
Geneva chia đôi đất nước năm 1954. Bài hát diễn tả nỗi đau buồn 
của cô gái trong màn đêm mưa, thương nhớ chồng, và mong ước anh 
trở về. Với giai điệu nhẹ nhàng, tiết tấu chậm đều, lời nhạc
 hữu hiệu qua các kỹ thuật dung hòa và mỹ từ lựa chọn, ca 
khúc "Giấc Ngủ Cô Đơn" là một tác phẩm xuất sắc về văn chương 
nghệ thuật và có giá trị lịch sử và xã hội. Bài hát được 
dùng trong chương trình Chiêu Hồi kêu gọi người cộng sản trở về
 với chính nghĩa quốc gia trong 1963-1975.
Như mọi tác phẩm văn chương khác, ngoài việc đem lại sự thưởng 
thức nghệ thuật, âm nhạc còn là một nguồn tài liệu ghi nhận 
lại những biến cố lịch sử hoặc sự kiện xã hội đương thời. 
Nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trước 1975 không những đạt được 
tột đỉnh của nghệ thuật mà còn ghi nhận lịch sử và xã hội 
một cách trung thực nhờ các điều kiện độc đáo của thời chiến
 tranh, nhân tình hiền hòa của miền Nam, môi trường khuyến khích
 tự do sáng tạo của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), và 
cuộc sống thanh bình bị khuấy động bởi cộng sản. 
Có nhiều ca khúc ca ngợi lòng can đảm và nỗi nhọc nhằn của 
chiến sĩ VNCH, lòng ái quốc, tình yêu thương tổ quốc, gia đình,
 và người yêu. Có những ca khúc mô tả sự khốc liệt của chiến 
tranh và sự tàn bạo của cộng sản chém giết dân vô tội. Có 
nhiều bài hát nói đến ước mơ hòa bình, quê hương đất nước, và
 cuộc sống thanh bình sung túc của miền Nam. Bên cạnh những bài
 hát về chiến tranh và quê hương còn có những bài hát về tình
 yêu trai gái, lãng mạn hoặc ngây thơ trong trắng của tuổi học 
trò.
Trong những ca khúc trên, ca khúc "Giấc Ngủ Cô Đơn," được viết 
bởi Anh Bằng và Lê Dinh vào năm 1963, là một đóng góp đáng kể 
trong kho tàng âm nhạc và văn chương miền Nam trước 1975. "Giấc 
Ngủ Cô Đơn" có giá trị cả về văn chương nghệ thuật lẫn xã hội
 và lịch sử vì nó được lồng trong bối cảnh sự việc tập kết 
của quân cộng sản sau Hiệp định Geneva vào năm 1954 và nó được 
dùng trong chương trình Chiêu Hồi của chính phủ VNCH trong khoảng
 thời gian 1963-1975.
Trong bài "Căn Nhà Ngoại Ô,"
 tôi đã viết về tiểu sử nhạc sĩ Anh Bằng (Cao-Đắc 2014). Do 
đó, tôi sẽ không nhắc lại trong bài này. Sau đây là tiểu sử 
vắn tắt của nhạc sĩ Lê Dinh (Wikipedia 2015a).
Lê Dinh tên thật là Lê Văn Dinh, sinh năm 1934 tại tỉnh Gò Công (nay là 
tỉnh Tiền Giang).  Ông là nhạc sĩ nối tiếng trong miền Nam từ 
thập niên 1950 cho tới 1975, và tiếp tục sáng tác tại hải 
ngoại sau khi ông vượt biên rời Việt Nam năm 1978. Ông từng là một 
trong 3 thành viên của nhóm Lê Minh Bằng gồm có Lê Dinh, Minh Kỳ và 
Anh Bằng.
Lê Dinh theo học trung học tại Collège Le Myre de Vilers (Mỹ Tho) trong
 1948-1953. Ông học hàm thụ lớp hòa âm và sáng tác của École Universelle
 de Paris. Sau đó, ông học trường Cao đẳng Vô Tuyến Ðiện Saigon (École 
Supérieure de Radioélectricité de Saigon) trong 1953-1955. Ông dạy học 
(Pháp văn và âm nhạc) ở Gò Công và ở Chợ Lớn trong 1955-1957. Trong 
khoảng thời gian dài từ 1957 tới 1975, ông làm việc tại Ðài Phát 
thanh Saigon, giữ các chức vụ như Chủ sự Phòng Sản Xuất rồi Chủ sự 
Phòng Ðiều Hợp. Vào tháng 8 năm 1978, Lê Dinh vượt biên đến Đài Loan. 
Sau đó, ông định cư ở Montréal, Canada từ tháng 10 năm 1978 cho đến 
nay. 
Những ca khúc nổi tiếng của ông gồm có Làng Anh Làng Em (1956),
 Tấm Ảnh Ngày Xưa (1961), Tình Yêu Trả Lại Trăng Sao (1964), Chiều Lên 
Bản Thượng (1964), Cánh Thiệp Đầu Xuân (1962, viết cùng với Minh 
Kỳ), Giấc Ngủ Cô Đơn (1963, viết cùng với Anh Bằng), Làng Tôi 
(Lê Minh Bằng), Những Đêm Chờ Sáng (Lê Minh Bằng).
Nguyên văn lời bài hát "Giấc Ngủ Cô Đơn" như sau (Xem, Nhạc Việt trước 75):
Nửa đêm nhớ anh, buồn nghe mưa khóc bên mành
Nửa đêm nhớ anh, tủi thân mi khép mong manh
Ai ngỡ duyên mình, bẽ bàng lá thắm xa cành
Chim đàn xa tổ tội tình, người chờ người trong lúc tuổi xanh.
Gọi anh giữa đêm, sầu thương tay đứt ruột mềm
Gọi anh giữa đêm, khổ đau như xé con tim
Nghe gió qua thềm, ngỡ ngàng chân bước đi tìm,
Nghiêng mình qua cửa im lìm, trời lạnh lùng như gợi buồn thêm.
Anh, người bên vĩ tuyến, xin nhớ quay về
khung trời miền Nam sống trong tình thương.
Nghe chăng tiếng mưa rơi,
như xót thương người vùi chôn sắc hương cuộc đời.
Về đây với nhau, đừng cho duyên thắm phai màu.
Đã yêu mến nhau, đừng gieo cay đắng cho nhau.
Anh nhớ đêm nay, có người em gái thơ ngây,
môi hồng nức nở canh dài, bàng hoàng vì trong mộng chờ ai.
Bàng hoàng vì giấc ngủ cô đơn.
Có phiên bản sửa lại lời bài hát ở đoạn quan trọng nhất, và làm hủy hoại ý nghĩa của bài hát. Đó là câu "Anh, người bên vĩ tuyến, xin nhớ quay về khung trời miền Nam sống trong tình thương" bị thay đổi thành "Anh, giờ anh ở đâu, thương/nhung nhớ vô vàn, ân tình đầu tiên với bao niềm thương."
Trong bài này, như thường lệ, tôi sẽ chú trọng thảo luận về 
các khía cạnh văn chương của bài hát, nội dung và hình thức, 
và vài điểm về âm nhạc. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người 
nghe, người đọc, và người xem.
A.  Bối cảnh lịch sử của câu chuyện trong ca khúc"Giấc Ngủ Cô Đơn" 
Ca khúc "Giấc Ngủ Cô Đơn" ra đời năm 1963 nhưng câu chuyện và tâm 
tình của cô gái diễn tả trong bài hát liên hệ đến các sự 
kiện lịch sử xảy ra trước đó, vào năm 1954-1955 sau hiệp định 
Genève năm 1954 chia đôi đất nước thành hai miền Nam Bắc tại vĩ 
tuyến 17. Ngoài ra, bài hát này cũng được dùng cùng với những
 ca khúc khác trong chương trình phát thanh hoặc văn nghệ cho 
chương trình Chiêu Hồi của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa từ năm 
1963-1975. Do đó, ta nên tìm hiểu thêm về hai khía cạnh lịch sử 
này liên hệ đến bài hát. 
1.     Theo Hiệp Định Geneva 1954, những thành phần quân sự 
cộng sản ở trong Nam tập kết ra Bắc nhưng với mưu đồ trở lại 
miền Nam với dự tính thôn tính miền Nam:
Hiệp định Geneva ký ngày 21 tháng 7 năm 1954 có những điều 
khoản nhắm vào giải quyết các vấn đề liên hệ tới Đại Hàn và
 Đông Dương. Có hai điểm quan trọng cần phải ghi nhận. Thứ nhất,
 hiệp định này về việc ngưng bắn chỉ có Pháp và cộng sản 
Bắc Việt ký. Miền Nam Việt Nam (bấy giờ là Quốc Gia Việt Nam) 
và Hoa Kỳ không hề ký hiệp định. Thực ra, Quốc Gia Việt Nam 
còn phản đối mãnh liệt về việc chia đôi đất nước (Miller 2013, 
95, 97). Thứ nhì, về tuyên bố chót của hiệp định nói đến việc
 bầu cử thống nhất hai mìền, không có nước nào ký. Ngoài ra, 
Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đặc biệt "từ chối chấp nhận tuyên 
bố này" (Logevall 2012, 605-606; Wikipedia 2015b).
Một trong những điều khoản của Hiệp định Geneva là hai phe phải
 hoàn toàn rút quân ra khỏi lãnh thổ của phe kia. Nghĩa là quân
 Pháp và quân quốc gia Việt Nam rút ra khỏi miền Bắc và trở 
về miền Nam, và quân cộng sản Việt Minh rút ra khỏi miền Nam 
và trở về miền Bắc (Asselin 2013, 13). Quân đội Pháp và quốc 
gia Việt Nam triệt để theo điều khoản này. Tất cả thành phần 
quân đội thuộc Pháp và quốc gia Việt Nam, tổng cộng 132.000 
lính, rời khỏi miền Bắc nằm trên vĩ tuyến 17 (Logevall 2012, 
631). Ngược lại, cộng sản Bắc Việt vi phạm điều khoản này ngay
 sau khi ký Hiệp định. Đảng cộng sản Việt Nam, bấy giờ trá 
hình là Đảng Lao động Việt Nam, ra lệnh một số lớn lính ở 
lại miền Nam (Asselin 2013, 18). "Sau Hiệp định Geneva, thời gian 
định cư chứng kiến khoảng 200.000 người ra Bắc và 1 triệu người
 đi ngược chiều. Là bí thư Xứ Ủy Nam Bộ (Southern Territorial 
Committee), Lê Duẩn chọn ở lại bí mật trong miền Nam, cùng với 
khoảng 10.000 quân cách mạng" (Nguyễn 2012, 31). Con số 10.000 
lính cộng sản ở lại miền Nam có thể là con số thấp vì cộng 
sản giữ thống kê với số ít để làm giảm mức độ vi phạm hiệp 
định Geneva 1954.  Trên thực tế, có những trường hợp quân cộng 
sản làm bộ lên tàu ra Bắc, nhưng sau đó lại bí mật lẻn về. 
Thí dụ điển hình là Lê Duẩn, lên tàu ra đi trước công chúng, 
nhưng sau đó lẻn về Cà Mau trên chiếc tàu nhỏ (Nguyễn 2012, 31).
 Nhiều lính Việt Minh (danh xưng cộng sản bấy giờ) có lệnh tập
 kết ra Bắc nhưng thực ra ở lại miền Nam.  Thí dụ, có trường 
hợp cấp lãnh đạo cộng sản nhờ hải quân Pháp gíúp mang 17.000 
lính và gia đình ra Bắc, nhưng chỉ có 11.000 người đến, cho 
thấy 6.000 người ở lại (Asselin 2013, 18). Đây chỉ là thí dụ cho
 một chuyến.
Phái đoàn Gia Nã Đại của Ủy hội Quốc tế Giám Sát và Kiểm soát 
tại Việt Nam (International Commission for Supervision and Control in 
Vietnam, ICSC) "ước lượng 173.900 lính và 86.000 'người thêm nữa,'
 gồm có 'gia đình quân sự, cán bộ hành chánh, và những tù 
chiến tranh được thả,' tập kết ra Bắc trong 1954-55" (Asselin 
2013, 18-19). Ta khó xác định được số người dân di cư ra Bắc, 
nhưng có vẻ là không đáng kể. Nhiều người hối hận là đã ra 
Bắc, và có người còn đòi trở về Nam (sđd.). Có khoảng 930.000 
người dân miền Bắc rời xứ vô Nam trong 1954-55 (sđd., 20; 
Logevall 2012, 637). Khoảng 3/4 dân số người di cư theo Công giáo 
và khoảng 200.000 theo Phật giáo (Miller 2013, 98). Ngược lại với
 tuyên truyền cộng sản, quyết định tị nạn của những người rời
 bỏ miền Bắc chẳng có dính líu gì đến các tin đồn về Đức 
Mẹ Virgin Mary hoặc nỗi lo sợ về cuộc tấn công bom nguyên tử (sđd., 99).
Trong khi hầu hết mọi người miền Bắc di cư xuống Nam là thường 
dân, người trong Nam đi ra Bắc toàn là quân du kích cộng sản và 
gia đình họ (Huyen 1971, 249; Asselin 2013, 18-19). Số người miền Bắc
 di cư vào Nam còn nhiều hơn nếu cộng sản không cố gắng cản trở việc 
ra đi của họ (Asselin 2013, 20; Duiker 2000, 487; Huyen 1971, 248-249; 
Nixon 1985, 35). Ngoài ra, theo tài liệu cộng sản, "[t]ừ năm 1954 
đến 1975, hơn 32.000 học sinh miền Nam lần lượt theo xe bộ đội, đi tàu 
thủy, đi bộ vượt dãy Trường Sơn… ra miền Bắc học tập" (Hoàng 2014). Tuy 
thời gian cho biết là từ 1954 đến 1975, đa số là ngay sau khi 
Hiệp định Geneva được ký. "Năm 1954, hiệp định Giơnevơ được ký kết. 
Cùng với việc tập kết bộ đội và cán bộ miền Nam ra Bắc, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh, Đảng, Chính phủ chủ trương đưa học sinh từ 6 -7 tuổi cho đến 19-20
 tuổi là con em cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam từ các địa phương ra
 miền Bắc học tập. Nhiệm vụ là đào tạo thành đội ngũ kế cận cho cách 
mạng miền Nam cũng như cách mạng cả nước sau này" (Hoàng 2014). Hồ Chí
 Minh và các lãnh tụ cộng sản khác đã có âm mưu đào tạo các 
cán bộ cộng sản trung thành ngay từ lúc họ còn bé, thích hợp
 cho chương trình tẩy não và nhồi sọ.
Thời bấy gìờ, sau hiệp định Geneva, "[b]iết bao nhiêu người trong 
Nam lỡ mê say lý tưởng với chiêu bài yêu nước của đảng Cộng sản đã ra đi
 tập kết bỏ lại vợ con mà ra Bắc" (Lê 2006). Việc bỏ vợ con hoặc gia
 đình của những người theo cộng sản tập kết ra Bắc tạo ra 
những cảnh ngang trái đau lòng, và là bối cảnh cho ca khúc 
"Giấc Ngủ Cô Đơn." Có vài lý do họ bỏ vợ con. Thứ nhất, họ 
nghĩ là họ sẽ chỉ xa nhau hai năm, vì trong hiệp định Geneva, 
phần tuyên bố sau cùng ghi sẽ có tổng bầu cử thống nhất trong 
vòng hai năm (Logevall 2012, 606; Wikipedia 2015b). Cấp lãnh đạo 
cộng sản không cho lính họ biết rõ rệt rằng việc bầu cử chỉ 
là lời tuyên bố suông, không được nước nào ký, kể cả Bắc 
Việt, và không có hiệu lực pháp lý. Thứ nhì, họ nhận chỉ 
thị tập kết ra Bắc để được huấn luyện và chuẩn bị trở lại 
miền Nam trong kế hoạch thôn tính miền Nam của cấp lãnh đạo 
cộng sản Bắc Việt bấy giờ. Vì họ đã từng sinh sống ở miền 
Nam, quen thuộc địa thế, tập quán, và ngay cả cách ăn nói, họ 
sẽ dễ dàng gia nhập vào đời sống miền Nam sau này mà không bị
 nghi ngờ.
Năm 1959, quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) (Democratic 
Republic Vietnam, DRV) của cộng sản Bắc Việt bắt đầu cuộc xâm 
lăng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) (Republic of Vietnam, RVN) 
tại miền Nam, dưới chỉ thị của Tàu cộng và Liên Xô, thực hiện
 đề thôn tính quốc gia VNCH. Cuộc xâm lăng này rõ ràng vi phạm 
Hiệp định Geneva 1954 lần nữa. Cấp lãnh đạo cộng sản Bắc Việt
 thiết lập Đoàn 559 và 959, đặt tên theo ngày thành lập, tháng 5
 và tháng 9 năm 1959, để duy trì đường cung cấp vật liệu và 
quân lính qua ngả Lào và theo biển (Logevall 2012, 690; Nguyễn 
2012, 45-46), mở đầu cho cuộc di chuyển binh lính, vũ khí, đạn 
dược, xe cộ, vật liệu, cho cuộc xâm lăng có hệ thống trong 
nhiều năm sau đó. "Đa số nhân viên trong các chuyến đầu tiên này 
là những 'người tập kết,' những người Việt Minh trước đó từ 
miền Nam ra Bắc để được huấn luyện và nhồi sọ sau Hội Nghị 
Geneva. Công việc của họ bây giờ là trở về nhà để giúp đám 
nổi loạn với một lực lượng cán bộ kinh nghiệm và trung thành 
cốt lõi vững vàng" (Logevall 2012, 690).
2.     Chương trình Chiêu Hồi kêu gọi quân cộng sản trở về 
với chính nghĩa đạt được thành công đáng kể với gần 200.000 
hồi chánh viên trong 1963-1971:
Chương trình Chiêu Hồi khởi sự với chính phủ VNCH năm 1963 do hai
 nỗ lực cố vấn. Bên Mỹ, Rufus Philips, bấy giờ là nhân viên CIA,
 và C.R. Bohannan dùng kinh nghiệm của họ trong chương trình EDCOR
 tại Phi Luật Tân. Robert Thompson (lúc ấy làm việc trong Cơ Quan 
Cố Vấn Anh tại Việt Nam) riêng biệt tạo ảnh hưởng cho một 
chương trình rời bỏ cộng sản tại cấp chính quyền cao nhất của
 VNCH (Friedman; Koch 1973, v-vi; Moyar 2007, 36).
Chương trình này ân xá những người Việt Cộng muốn rời bỏ cộng
 sản (Moyar 2007, 36). Những người trở về với chính phủ VNCH 
được gọi là hồi chánh viên. Họ được đối đãi tử tế, cho tiền 
thưởng, được huấn luyện có nghề nghiệp, được trở về sinh sống
 với gia đình hoặc định cư trong vùng kiểm soát bởi chính phủ 
VNCH, và được chính phủ bảo vệ khỏi sự trả thù của cộng 
sản. Nhiều hồi chánh viên cung cấp tin tức hữu ích về hoạt 
động cộng sản, điềm chỉ và nhận diện cán bộ cộng sản, mang 
vũ khí hoặc dẫn đến chỗ giấu vũ khí, và các nguồn tin quan 
trọng khác.
Tuy có chút lạm dụng và Việt Cộng cố tình gài người làm hồi
 chánh viên, chương trình Chiêu Hồi được coi thành công và thỏa 
đáng hơn chương trình Phụng Hoàng (Valentine 2000, 281). (Chương 
trình Phượng Hoàng là chương trình riêng biệt nhằm tiêu hủy hạ 
tầng cơ sở của Việt cộng.) Chương trình Chiêu Hồi khiến Việt 
Cộng mất rất nhiều cán bộ. Phe cộng sản coi việc rời bỏ là 
một trong những vấn đề lớn lao nhất. "Đảng coi Chương trình 
Chiêu Hồi nguy hiểm hơn cả chương trình Phượng Hoàng" (Moyar 2007,
 250). 
Thống kê của chính phủ VNCH cho thấy tổng số tích lũy hồi 
chánh viên cho tới đầu năm 1971 là 176.458 (Friedman). Con số này 
phù hợp với thống kê chính thức của Koch (1973, 11).  Theo Koch, 
tổng số hồi chánh viên trong 1963-1971 là 194.424.  Đặc biệt, 
vào năm 1969, sau trận Tổng tấn công thất bại vào Tết Mậu Thân,
 số hồi chánh viên nhảy vọt lên tới 47.023. Tài liệu của Koch 
được giữ bí mật từ năm 1973 cho tới năm 2005 khi nó được giải 
mật. Do đó, những tài liệu hoặc sách vở viết trước năm 2005 
có thể không có những thống kê này.
Tin tức về chương trình Chiêu hồi được mang đến dân chúng và 
những hồi chánh viên tương lai qua nhiều cách: truyền đơn thả từ
 máy bay hoặc rải tay, báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim 
ảnh, ảnh hưởng gia đình, liên lạc với các cựu Việt cộng đã 
hồi chánh (Koch 1973, 64). Trong các loại truyền đơn, Giấy Thông 
Hành (Safe Conduct Pass) có hiệu quả nhất (Koch 1973, 66-67). Có 
vài trang mạng có nhiều hình ảnh và tài liệu về chương trình 
Chiêu Hồi (Xem, thí dụ như. Friedman, Nam Ròm 2013). Biểu tượng 
của chương trình Chiêu Hồi là chim bồ câu trắng hướng về nhóm 
lửa, đưa ra hình ảnh trở về với gia đình ấm áp (Friedman, Nam 
Ròm 2013).
Ca khúc chính thức cho chương trình chiêu hồi trên đài phát thanh
 và truyền hình là bản "Ngày Về" của nhạc sĩ Hoàng Giác. Câu
 mở đầu của bài hát là "Tung cánh chim tìm về tổ ấm," phù 
hợp với biểu tượng chim bồ câu và đóm lửa. Ngoài ca khúc 
"Ngày Về," nhiều bài hát khác cũng được dùng trong các chương 
trình văn nghệ về chiêu hồi, như "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" của Lam 
Phương, "Bóng đêm" của Anh Bằng, và "Giấc Ngủ Cô Đơn" của Anh 
Bằng và Lê Dinh (Wikipedia 2015c).
B.   "Giấc Ngủ Cô Đơn" là lời than thở của một thiếu phụ trẻ có chồng tập kết ra Bắc sau hiệp định Geneva 1954.
Bài hát kể câu chuyện một cô gái thức khuya không ngủ vì nhớ 
người yêu hay người chồng đã ra đi tập kết ra Bắc, bỏ cô ở lại
 miền Nam sống cuộc đời cô đơn. (Tuy bài hát không nói rõ chàng
 trai là người yêu hay người chồng, có một chi tiết, như sẽ 
được trình bày sau, khiến ta có thể suy đoán đó là người 
chồng.) Bài hát có bố cục thông thường, gồm có ba phiên khúc 
(PK) và điệp khúc (ĐK). PK 1 và PK 2 mô tả cảnh cô đơn của cô 
gái và nỗi nhớ nhung chồng. ĐK kêu gọi người chồng ngoài Bắc 
trở về với gia đình trong Nam. PK 3 kết thúc với lời khuyên 
người chồng và nhắc nhở hình ảnh cô gái buồn trong giấc ngủ 
cô đơn.
Bài hát mở đầu trong PK 1 với hình ảnh nửa đêm cô gái vẫn còn
 thao thức, nhớ chồng. Bên ngoài, trời mưa như đang khóc bên mành
 che nhà. Cô gái cảm thấy tủi thân vì bị bỏ rơi và cô đơn, 
nhắm mắt với hàng mi mong manh ("Nửa đêm nhớ anh, buồn nghe mưa khóc bên mành/ Nửa đêm nhớ anh, tủi thân mi khép mong manh.").
Khi cô và anh mới lấy nhau, cô không ngờ là sau này cuộc đời 
tình duyên của cô lại bẽ bàng chịu cảnh xa nhau như lá rời 
cành, như chim xa đàn, và cô phải trông chờ chồng lúc còn trẻ 
tuổi ("Ai ngỡ duyên mình bẽ bàng lá thắm xa cành/ Chim đàn xa tổ tội tình, người chờ người trong lúc tuổi xanh.") Với câu "chim đàn xa tổ tội tình,"
 Anh Bằng và Lê Dinh gợi ý cho hình ảnh những kẻ lầm đường 
lạc lối, đi theo con đường tội lỗi của cộng sản chống lại quê 
hương, và tạo ra cảnh chia ly xa cách cho những cặp tình nhân 
hoặc vợ chồng trẻ.
Cô gái tiếp tục bày tỏ nỗi thương nhớ trong PK 2. Trong lúc 
thương nhớ anh, cô gọi tên anh trong màn đêm với nỗi buồn sầu 
thảm đau khổ thấu da xé tim ("Gọi anh giữa đêm, sầu thương tay đứt ruột mềm/ Gọi anh giữa đêm, khổ đau như xé con tim.") "Tay đứt ruột mềm" là câu ghép giữa hai thành ngữ "máu chảy ruột mềm" và "tay đứt ruột xót."
 Cả hai thành ngữ này nói đến tình nghĩa anh chị em gắn bó 
với nhau như tay và ruột. Dùng thành ngữ về tình nghĩa anh em 
cho tình yêu trai gái vợ chồng có chút lạ lùng, nhưng tác giả 
muốn nhấn mạnh nỗi đau buồn của cô gái xa chồng và thương xót 
anh như người ruột thịt. Tác giả tiếp tục mô tả nỗi đau buồn 
thống thiết này đến tột độ với "khổ đau như xé con tim." 
Ta hiểu những từ ngữ "xé tim," "đứt ruột," "nát gan" nói đến 
sự tàn phá của các bộ phận trong cơ thể là cách diễn tả cho 
cơn đau buồn cực độ.
Nhớ nhung anh, cô tưởng tượng anh đang ở quanh nhà hoặc về nhà. 
Tiếng gió lay động qua thềm nhà khiến cô tưởng bước chân anh. Cô
 nghiêng người nhìn qua cửa, mong thấy bóng dáng anh. Nhưng buồn 
thay, bên ngoài trời vẫn lạnh lùng yên tĩnh, không có ai khiến 
cô lại càng thêm buồn thảm ("Nghe gió qua thềm, ngỡ ngàng chân bước đi tìm/ Nghiêng mình qua cửa im lìm, trời lạnh lùng như gợi buồn thêm."). Với câu "Nghe gió qua thềm, ngỡ ngàng chân bước," ta không khỏi không liên tưởng đến Nguyễn Công Trứ với bài thơ "Tương Tư" có câu "Trăng soi trước mặt ngờ chân bước/ Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào."
 Những tiếng động hình ảnh mùi vị của thiên nhiên hoặc khung 
cảnh chung quanh gợi ra tưởng tượng đến người yêu là những gợi 
ý mạnh mẽ cho mối tình nồng nàn.
Trong hai PK đầu, khán giả vẫn chưa hiểu tại sao hai người xa 
cách và tại sao cô gái đau buồn vì cô đơn. Với ĐK, khán giả 
mới bừng hiểu lý do. Cô kêu gọi anh, đang ở miền Bắc trên vĩ 
tuyến 17, trở về miền Nam, nơi có đầy tình thương yêu ("Anh, người bên vĩ tuyến, xin nhớ quay về/ khung trời miền Nam sống trong tình thương.")
 Hai nhóm chữ "người bên vĩ tuyến" và "khung trời miền Nam" cho 
thấy bối cảnh lịch sử và giải thích lý do cho nỗi cô đơn và 
cơn đau buồn thống thiết của cô gái xa chồng. Câu này cũng là 
câu chính yếu kêu gọi những người cộng sản lầm đường lạc lối 
trở về với chính nghĩa quốc gia trong chương trình Chiêu Hồi 
của chính phủ VNCH trong năm 1963-1975.
Tiếng mưa rơi rả rích như tiếng khóc của ai trong đêm trường, 
thương xót cho cô vùi chôn cuộc đời hương sắc không chồng ("Nghe chăng tiếng mưa rơi, như xót thương người vùi chôn sắc hương cuộc đời.") Tác giả nhắc lại cảnh mưa rơi "mưa khóc bên mành" trước đó. Lần này, tiếng mưa rơi còn nghe thê thảm hơn như đang than khóc cho người con gái "vùi chôn sắc hương cuộc đời." 
Tại sao cô có thể vùi chôn sắc hương cuộc đời? Nếu hai người xa 
nhau và nếu cô gái không nghe tin về người yêu hoặc chồng sau 
một thời gian lâu, thì cô vẫn có thể coi như anh đã chết hoặc 
không còn muốn trở về nữa và bỏ rơi cô hoàn toàn. Do đó, cô 
vẫn có thể có người yêu khác, hoặc sang ngang. Tại sao cô vùi 
chôn sắc hương cuộc đời? Một cách tinh tế, tác giả nói lên tình 
nghĩa vợ chồng thắm thiết và sâu đậm của người phụ nữ miền 
Nam thời bấy giờ. Tình nghĩa vợ chồng khiến cô giữ lòng chung 
thủy suốt đời, cho dù cô không nhận được tin tức gì về người 
chồng. Trong bài "Cái Cò,"
 (Cao-Đắc 2015) tôi đã đề cập đến đức tính này. Đó là đặc 
tính của phụ nữ miền Nam trước 1975, và có lẽ bây giờ với 
những người còn giữ đức hạnh của phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra, 
chi tiết này cho thấy người cô đang thương nhớ hầu như chắc chắn
 là chồng cô, và không phải chỉ là người yêu, vì chỉ có với 
chồng, cô mới giữ gìn lòng chung thủy "vùi chôn sắc hương cuộc 
đời."
Trong PK 3, cô gái nhắn nhủ người yêu, với lời lẽ gần như van 
xin. Cô kêu gọi anh trở về với cô, đừng làm phôi phai mối tình 
nồng thắm của hai người.  Hai người đã yêu mến nhau thì không 
nên gieo buồn thương cay đắng cho nhau ("Về đây với nhau, đừng cho duyên thắm phai màu/ Đã yêu mến nhau, đừng gieo cay đắng cho nhau.") Với cách dùng chữ "đừng,"
 cô gái không phải chỉ có lời nhắn nhủ, mà còn như là lời van
 lơn kêu gọi chồng hồi tâm mà không nên phụ rẫy cô. Lời nhắn 
nhủ của cô rất đơn gỉản, hơi có phần yếu đuối, nhưng nói lên 
tâm tình mạnh mẽ của cô.
Cô nhắc với anh rằng hãy nhớ đến cô, một cô gái thơ ngây với 
đôi môi hồng còn tràn nhựa sống, mà đang nức nở khóc cho thân 
phận trong đêm dài. Cô cảm thấy tái tê bàng hoàng mơ chờ đợi 
anh trong giấc ngủ cô đơn ("Anh nhớ đêm nay có người em gái thơ 
ngây/ môi hồng nức nở canh dài, bàng hoàng vì trong mộng chờ ai/ Bàng 
hoàng vì giấc ngủ cô đơn.") Dùng từ ngữ "bàng hoàng" hơi có 
chút lạ lùng. "Bàng hoàng" có ý nghĩa thông thường là ngạc 
nhiên cực độ, sửng sốt, choáng váng đến độ không ý thức rõ 
rệt. Tại sao cô bàng hoàng "vì trong mộng chờ ai" hoặc "vì giấc ngủ
 cô đơn"? Thực ra, ngoài ý nghĩa sững sờ, sửng sốt, ngạc nhiên,
 "bàng hoàng" còn có nghĩa dao động tâm trí, tâm thần không 
được ổn định có thể do bởi lý do tinh thần hoặc vật chất. 
Thí dụ truyện Kiều có câu: "Bàng hoàng dở tỉnh dở say" khi 
nàng Kiều tỉnh cơn mê. Tác giả dùng nghĩa này trong bài hát 
có ý nói tâm thần cô gái dao động do bởi nỗi cô đơn trong giấc 
ngủ.
C.  Dưới cấu 
trúc âm nhạc truyền thống, "Giấc Ngủ Cô Đơn" mô tả tâm tình cô 
gái với các kỹ thuật diễn tả dung hòa giữa cảnh và tình, và
 một gói ghém chi tiết lịch sử độc đáo
Về phương diện âm nhạc, "Giấc Ngủ Cô Đơn" có nét đặc sắc thông 
thường của âm điệu cho một bài hát về tâm tình. Bài hát có 
giá trị văn chương nghệ thuật qua cách diễn tả hữu hiệu với 
kỹ thuật dung hòa về "cho thấy" và "kể," tả cảnh và tả tình,
 cách dùng mỹ từ so sánh và ẩn dụ. Lý do của cuộc xa cách 
của hai người được tiết lộ một cách vắn tắt, tạo ra nét độc 
đáo, nhưng có phần mạo hiểm.
1.     Bài hát có nhịp điệu chậm và giai điệu nhẹ nhàng 
trong phiên khúc và bay bổng trong điệp khúc, thích hợp cho khung
 cảnh đêm mưa và lời kêu gọi trở về:
Như đa số ca khúc miền Nam trước 1975, "Giấc Ngủ Cô Đơn" có một 
cấu trúc truyền thống với ba phiên khúc có cùng giai điệu và 
tiết tấu, và điệp khúc với giai điệu cao bổng để nhấn mạnh ý
 tưởng. Giai điệu và tiết tấu phù hợp với ý tưởng của lời ca
 về tâm tình cô đơn của một thiếu phụ xa chồng trong màn đêm.
Nhịp điệu của ba phiên khúc chậm đều, thích hợp với lời ca mô 
tả cảnh màn đêm dưới cơn mưa. Bài hát nói đến mưa, nhưng không 
phải là cơn mưa thác lũ xối xả, tí tách, hoặc dầm dề, mà là
 cơn mưa rả rích trong màn đêm, do đó không có tiết tấu dồn dập
 và linh hoạt như "Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội" của Phạm Đình 
Chương, khúc đoạn như "Giọt Mưa Trên Lá" của Phạm Duy, hoặc lê 
thê như "Thà Như Giọt Mưa" của Phạm Duy. Các nốt nhạc liên kết 
trong một chuyến động đều, không có những lên xuống đột ngột, 
giúp khán giả cảm nhận hình ảnh được diễn tả.
Điểm đặc sắc nhất nằm ở giai điệu bay bổng của điệp khúc 
giúp nhấn mạnh chi tiết lịch sử độc đáo. Vì đây là cao điểm 
của bài hát khi chi tiết lịch sử đó cho biết lý do xa cách 
của hai người, chuyển tiếp của giai điệu trở nên đột ngột với 
âm tiết lên cao với câu "Anh, người bên vĩ tuyến. . . " Chi tiết 
đó chỉ được đề cập một lần trong đoạn này trong cả bài hát. 
Do đó tác giả đã cố gắng dàn dựng để nhấn mạnh câu này với 
giai điệu bốc cao khiến cho khán giả khó lòng mà nhỡ chi tiết 
đó. Tuy nhiên, vì chi tiết đó chỉ được đề cập đến một lần, 
khán gỉả vô ý có thể không để ý. Trong phần ĐK, như thường 
lệ, âm tiết chót của mỗi câu được kéo dài để tạo âm hưởng cho
 khán gỉả.
2.     Bài hát dung hòa kỹ thuật "cho thấy" và "kể" để dung 
hòa cảnh và tình, phối hợp với mỹ từ so sánh và ẩn dụ, với
 vần điệu êm ái, và táo bạo với đề cập vắn tắt về chi tiết 
lịch sử:
Anh Bằng và Lê Dinh có lối diễn tả sống động khiến khán giả 
thấu hiểu nỗi buổn cô đơn và tâm sự da diết của cô gái thương 
nhớ người chồng. Nhờ vậy, khán giả thấy được sự sai lầm của 
những người cộng sản tập kết ra Bắc, thiếu tình cảm, theo 
đuổi những mơ ước hoang tưởng và ngu muội phụng vụ cộng sản 
ngoại bang. 
Tác giả diễn tả tâm sự cô gái buồn thảm bằng cách dung hòa 
tả cảnh và tả tình qua phối hợp kỹ thuật "cho thấy" và "kể."
  Thí dụ, "mưa khóc qua mành" cho thấy cảnh trời mưa để kể cơn buồn, "mi khép mong manh" cho thấy hình ảnh nhắm mắt để kể niềm chịu đựng chấp nhận, "lá thắm xa cành" cho thấy cảnh lá rơi khỏi cành cây để kể sự chia cách, "chim đàn xa tổ" cho thấy đàn chim rời tổ ấm để kể sự ra đi dại dột lầm đường lạc lối, "tay đứt ruột mềm" và "xé con tim" cho thấy hình ảnh đau đớn thể chất để kể nỗi đau thương, "môi hồng nức nở" cho thấy cô gái khóc lóc để kể nỗi thống hận.
Song song với sự dung hòa này là cách dùng mỹ từ so sánh 
(simile) và ẩn dụ (metaphor) gợi hình và linh động. Thí dụ, "lá thắm xa cành" là ẩn dụ cho chia cách, "chim đàn xa tổ" là ẩn dụ cho ra đi lầm đường, "tay đứt ruột mềm" là ẩn dụ cho tình nghĩa yêu thương, "xé con tim" là so sánh nỗi buổn cùng cực, "vùi chôn sắc hương" là ẩn dụ cho phí phạm cuộc đời.
Tác giả có cách dùng chữ mạnh mẽ, gợi hình và tạo nét sống động. Thí dụ, "mưa khóc" nhấn mạnh sự tỉ tê của cơn mưa rả rích. ("Mưa khóc"
 thực ra là cách dùng sai chữ, vì mưa không thể khóc được khi 
mưa chính là giọt nước mắt, và do đó không thể là chủ từ của
 động từ khóc. Tuy nhiên cách dùng sai chữ này không là một 
vấn đề vì người nghe có thể hiểu dễ dàng.) Các thí dụ khác 
về từ ngữ mạnh mẽ, tượng hình, và gây cảm xúc gồm có "mi 
khép,""tội tình," "xé con tim," "im lìm," "lạnh lùng," "vùi chôn," 
"môi hồng," và "bàng hoàng." 
Đi theo với bố cục truyền thống, tác giả duy trì vần điệu để 
làm tăng âm hưởng êm ả, trôi chảy. Tác giả gieo vần kỹ càng và
 nhất quán trong các phiên khúc. Điểm đặc sắc là lối gieo vần 
kép, vừa giữa câu và cuối câu. Thí dụ, trong PK 1, ta thấy vần 
gieo giữa câu gồm có "anh," "anh," "mình," "tình," và cuối câu 
gồm có "mành," "manh," "cành", và "xanh."
Nửa đêm nhớ anh, buồn nghe mưa khóc bên mành
Nửa đêm nhớ anh, tủi thân mi khép mong manh
Ai ngỡ duyên mình, bẽ bàng lá thắm xa cành
Chim đàn xa tổ tội tình, người chờ người trong lúc tuổi xanh.
Gọi anh giữa đêm, sầu thương tay đứt ruột mềm
Gọi anh giữa đêm, khổ đau như xé con tim
Nghe gió qua thềm, ngỡ ngàng chân bước đi tìm,
Nghiêng mình qua cửa im lìm, trời lạnh lùng như gợi buồn thêm.
...
Về đây với nhau, đừng cho duyên thắm phai màu.
Đã yêu mến nhau, đừng gieo cay đắng cho nhau.
Anh nhớ đêm nay, có người em gái thơ ngây,
môi hồng nức nở canh dài, bàng hoàng vì trong mộng chờ ai
Một điểm nổi bật trong "Giấc Ngủ Cô Đơn" là cách tác giả tiết
 lộ lý do của sự xa cách giữa cô gái và người yêu. Thật độc 
đáo và táo bạo, Anh Bằng và Lê Dinh để khán giả lắng nghe nỗi
 lòng buồn thảm của cô gái, với những hình ảnh linh động của 
cảnh tượng cô đơn trong màn đêm mưa rơi rả rích, trong suốt hai 
phiên khúc rồi mới bật ra cho biết lý do của sự xa cách trong 
phần ĐK. Tác giả viết nhạc như viết một truyện tiểu thuyết 
hồi hộp, với những tình tiết kết hợp dần dần làm tăng sự tò
 mò.
Kỹ thuật này độc đáo vì sự kiện lịch sử tập kết ra Bắc như 
một nét chấm phá phác nhẹ trên một bức tranh như một nét thiên
 tài không cần cố gắng (an effortless stroke of genius) của những 
họa sĩ thuộc trường phái ấn tượng (impressionism). Khán giả như
 chợt bừng tỉnh và cảm thấy thấm thía với nỗi buồn thống 
thiết của người thiếu phụ xa chồng. Việc xa cách trong chuyện 
tình là việc thông thường, nhưng lý do của sự xa cách có thể 
làm tăng hoặc giảm giá trị của cuộc tình. Khi lý do không nói 
ra, giá trị cuộc tình có thể được gia tăng khi người trong cuộc
 quyết định giữ xa nhau, như ta thấy trong ca khúc "Thu Sầu" khi 
hai người xa nhau như Ngưu Lang Chức Nữ. Trong "Giấc Ngủ Cô Đơn," 
lý do này được cho biết một cách phớt nhẹ qua một câu ngắn 
gọn. Với khán giả hiểu biết bối cảnh lịch sử như được trình 
bày ở trên, lý do này khiến khán gỉả thấu hiểu tâm sự và 
nỗi niềm cô đơn của cô gái, và do đó nhận ra sự hy sinh cao quý
 của người thiếu phụ trẻ có chồng lầm đường lạc lối.
Kỹ thuật này táo bạo và mạo hiểm vì khán gỉả có thể không 
nhận ra nét chấm phá đó và không hiểu được bối cảnh lịch sử,
 và do đó không quý sự hy sinh của cô gái. Toàn bài hát chỉ 
có hai nhóm chữ "người bên vĩ tuyến" và "khung trời miền Nam" nhắc 
đến việc chia cắt đất nước. Tuy hai nhóm chữ này được đặt ở 
phần giai điệu lên cao, nhiều khán giả vô ý có thể không nhận 
ra và tưởng bài hát chỉ là bài hát nói về mối tình xa cách 
thông thường nào đó.
D.  Kết Luận:
Ca khúc "Giấc Ngủ Cô Đơn" nói lên nỗi buồn cô đơn của một cô 
gái xa người yêu hoặc người chồng tập kết ra Bắc sau Hiệp định
 Geneva chia đôi đất nước năm 1954. Tâm sự cô được trình bày qua 
giai điệu êm ái, tiết tấu chậm đều, phù hợp với cảnh mưa rả 
rích trong đêm. Tác giả diễn tả nỗi cô đơn và buồn thảm một 
cách hữu hiệu qua sự dung hòa của kỹ thuật cho thấy và kể, 
và tả cảnh và tả tình, lồng trong bố cục truyền thống và 
cách dùng mỹ từ điêu luyện với vần điệu gieo chặt chẽ, giúp 
cho lời ca êm ái và trôi chảy.
Ngoài khía cạnh nghệ thuật văn chương, ca khúc "Giấc Ngủ Cô Đơn"
 có giá trị lịch sử vì nó ghi nhận sự kiện người cộng sản 
tập kết ra Bắc sau Hiệp định Geneva năm 1954 và việc dùng bài 
hát trong chương trình Chiêu Hồi kêu gọi người cộng sản trở về 
với chính nghĩa quốc gia. Một cách gián tiếp, bài hát cũng 
cho thấy bản chất hiền hòa, chịu đựng, và chung thủy của phụ 
nữ miền Nam trước 1975 và sự vô tình cảm của người cộng sản 
sẵn sàng bỏ rơi người yêu hoặc người vợ để theo đuổi mục tiêu 
sai lầm trong việc đem chủ nghĩa ngoại bang vào Việt Nam.
Cảm tạ:
Tôi xin có lời cám ơn các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo đã 
có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi 
có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn Lê Cửu Long.
Tài Liệu Tham Khảo:
Asselin, Pierre. 2013. Hanoi’s Road to the Vietnam War, 1954-1965. University of California Press, California, U.S.A.
Cao-Đắc, Tuấn. 2014. "Căn Nhà Ngoại Ô". 26-12-2014. 
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/12/can-nha-ngoai-o.html (truy cập 11-7-2015).
____. 2015. "Cái Cò". 30-4-2015. http://danlambaovn.blogspot.com/2015/04/cai-co_29.html (truy cập 11-7-2015).
Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh - A Life, Hyperion, New York, U.S.A.
Friedman, Herbert A. Không rõ ngày. The Chieu Hoi Program of Vietnam. Không rõ ngày. http://www.psywarrior.com/ChieuHoiProgram.html (truy cập 10-7-2015).
Hoàng Phương. 2014. Cuộc dịch chuyển lịch sử của hơn 32.000 học sinh miền nam. 14-12-2014. VNExpress. http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/cuoc-dich-chuyen-lich-su-cua-hon-32-000-hoc-sinh-mien-nam-3120192.html (truy cập 8-7-2015).
Huyen, N. Khac. 1971. Vision Accomplished? The Enigma of Ho Chi Minh. The Macmillan Company, New York, U.S.A.
Koch, J. A. 1973. The Chieu Hoi program in South Vietnam, 1963-1971. http://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/reports/2006/R1172.pdf (truy cập 11-7-2015).
Lê Văn Lân. 2006. Xuân Vũ: Cây bút lớn trui rèn với kinh nghiệm sống. 22-8-2006. http://namkyluctinh.org/xuanvu/levanlan-xuanvu.htm (truy cập 8-7-2015).
Logevall, Fredrik. 2012. Embers of War. Random House, New York, U.S.A.
Miller, Edward. 2013. Misalliance. Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam. Harward University Press, Cambridge, Massachusetts, U.S.A.
Moyar, Mark. 2007. Phoenix And The Birds Of Prey. Counterinsurgency and Counterterrorism in Vietnam. University Of Nebraska Press, Lincoln, Nebraska, U.S.A.
Nam Ròm. 2013. Hình xưa về Chương Trình Chiêu Hồi. 8-11-2013. http://namrom64.blogspot.com/2013/11/hinh-xua-ve-chuong-trinh-chieu-hoi.html (truy cập 1-7-2015).
Nguyen, Lien-Hang T. 2012. Hanoi’s War. The University of North Carolina Press, North Carolina, U.S.A.
Nhạc Việt trước 75. Không rõ ngày. Giấc ngủ cô đơn (Anh Bằng - Lê Dinh). Không rõ ngày. http://amnhacmiennam.blogspot.com/2013/05/giac-ngu-co-on-anh-bang-le-dinh.html (truy cập 1-7-2015).
Nixon, Richard. 1985. No More Vietnams. Avon Books, New York, U.S.A.
Valentine, Douglas. 2000. The Phoenix Program. iUniverse.com, Inc. Lincoln, Nebraska, U.S.A
Wikipedia. 2015a. Lê Dinh. 11-7-2015. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Dinh (truy cập 12-7-2015). 
______.2015b. Geneva Conference (1954). 27-6-2015. https://en.wikipedia.org/wiki/Geneva_Conference_%281954%29 (truy cập 11-7-2015).
______. 2015c. Chiêu hồi. 16-6-2015. https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%C3%AAu_h%E1%BB%93i (truy cập 11-7-2015).
© 2015 Cao-Đắc Tuấn
 

 
No comments:
Post a Comment