Cộng sản hô hào xẻ dọc Trường Sơn để
giải phóng miền Nam Việt Nam, thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng cộng
sản, còn chúng ta những nạn nhân xin ghi lại nổi đau, sự quằn quại của
kiếp người khi chẳng may sống dưới chế độ này.
Sau đây là toàn cảnh sinh hoạt của nhà tù
Xuân Phước, A 20, Tuy Hòa, Phú Yên và vì tính chất khắc nghiệt, tàn ác
dã man của nó nên còn được gọi là Thung Lũng Tử Thần.
Những cơn đói:
Nói đến cộng sản là
nói đến đói khát, nghèo nàn, lạc hậu và nơi trại giam trên hiện trường
lao động, nếu có con ếch nhái nào chạy ngang qua, đó là món quà tặng của
ngày hôm ấy. Các tù nhân chỉ kịp nướng sơ sài và bỏ vào miệng len lén
nhai, dù thật vội vã kín đáo, nhưng nếu bị quản giáo bắt gặp sẽ bị giật
lại, thậm chí bị móc ra khỏi miệng với bài giảng đạo đức cách mạng: nào
đã học nội qui chưa, ăn như thế là không hợp với nếp sống văn hoá mới,
kém văn minh. Các tù nhân vẫn thầm lặng, cúi đầu, nhưng trong ý nghĩ mỗi
người:
con người bỏ đói con người, chỉ vì khác biệt chính kiến, có là văn minh?
Một
người sắp ngã qụy vì thiếu lương thực song bị móc ra khỏi miệng miếng
ăn đang ngậm, hành vi đó có được gọi là nếp sống văn hoá mới? Hay chỉ là
hành động nhằm triệt hạ con người để trả thù. Hằng ngày cho dù các tù
nhân có nấu nướng đúng giờ cùng nơi qui định, các cán bộ trại giam cũng
tìm đủ mọi cách để đạp đổ thức ăn của tù nhân như khi hồi còi chấm dứt
giờ nấu nướng vừa thổi lên, chúng đã chờ đâu đó sẵn sàng chạy vào đạp đổ
hết thảy nếu ai đó chưa nhanh chân thu dọn kịp thời. Những cây rau dại,
các cánh lá rau má, những cây cải trời… đều bị móc ra từ trong túi áo,
lưng quần của các tù nhân trước khi vào cổng trại. Tất cả đều đi ra bằng
tay không, đi về với tay không và chân không.
Con người hay bóng ma: đặc điểm
của trại Thung Lũng Tử Thần là những ai mới đến sẽ nhận thấy ngay nước
da của tù nhân nào cũng xanh mét, họ ngồi thành hàng ốm o, co rút người
lại chờ xuất trại để lao động khổ sai. Những đoàn người lúc rời khỏi
trại giam xếp thành đoàn đội và di chuyển chầm chậm cách xa nhau, trông
họ không còn ra con người, nhưng lúc trở về cũng đoàn người đó, trong sự
kiệt sức rã rời, chân đi như kẻ say… họ đã bị vét hết sức lực trên các
cánh đồng và đang rán lê bước về trại giam. Những tù nhân đáng thương ấy
không còn nhìn ra người nữa và hằng đêm thường xuyên có tiếng kêu cấp
cứu từ các phòng giam vì ngộ độc thức ăn như say khoai mì, say nấm, say
những gì họ đã ăn phải để qua cơn đói. Các tù nhân xin đi cầu và họ
ngồi ngay chỗ đại tiểu tiện moi khoai mì sống và hãy còn non rồi bỏ vào
miệng nhai ngon lành… Tất nhiên sau đó là các chứng ói mửa, tiêu chảy.
Các tù nhân dường như đều sợ mùa đông, cái đói khủng khiếp làm buốt cả
xương da và tê liệt đầu óc con người. Hầu hết người nào da cũng săn lại,
nứt nẻ, có khi chảy nước vàng… Không biết trên thế giới có nhà tù nào
cho tù nhân ăn no hay không, riêng ở Châu Á, câu trả lời có lẽ là không,
ở nước Nga cũng vậy, và nếu có là nhà tù ở nước Mỹ? Quả đúng thật như
vậy, thì đó là niềm hãnh diện cho các công dân Hiệp Chủng quốc.
Con người ăn cỏ:
các sách sinh học hướng dẫn: loài nhai lại có con bò ăn cỏ, nhưng ở đây cả con người cũng thèm cỏ non,
nhiều tù nhân bị giam riêng lâu ngày thiếu chất tươi, được dịp ra
ngoài, thế là trên đường đi hỏi cung trở về hay giả vờ vấp té ngã để ăn
cỏ non, rồi uống tạm nước mương cho qua cơn khát. Người ta chứng kiến
các tu sĩ cũng vấp ngã như thế. Các tù nhân còn khoẻ mạnh và lao động
bên ngoài trại giam, khi đội ngũ của họ đi ngang qua đám rau lang, rau
muống nào… thì dường như luống rau ấy không còn đọt non nữa. Ai cũng vội
lặt lặt, phủi phủi rồi bỏ vào miệng nhai, và đều nhận thấy mắt mỗi
người như long lên, sáng hơn, mặc cho tiếng la ó của quản giáo, quản chế
về sự phá hoại hoa màu, thậm chí có tù nhân quá chậm tay bị đánh đá vào
người, nhưng cả một tập thể đều ăn nhơ như thế không thể móc ra hết, mà
chỉ có thể họp kiểm điểm, rút kinh nghiệm. Không có cuộc họp nào mà
không có nhiều người ngủ gật, “Hãy bắt chúng họp thật khuya” -Thường là
lời của các quản giáo. Thời gian trở thành thứ vũ khí để trừng phạt.
Pháp trường:
nhiều phiên toà lưu
động, nhiều án tử hình và lệnh hành quyết ngay tại trại giam. Các phiên
toà nầy thường xảy ra nhanh chóng, như buổi lễ tế Đảng đã được chuẩn bị
sẵn nào tuyên bố khai mạc, đọc cáo trạng, thẩm vấn bị can, lời nói cuối
cùng và trong lời tuyên bố trịnh trọng: bị can không thể cải tạo được
nữa. Mọi người biết rằng phiên toà sắp bế mạc, và trường bắn sẽ mở ra…
Các tù nhân trốn trại hoặc bị bắn chết ngay tại chỗ, nếu bị thương dù
trong cơn hấp hối, họ bị mang ra phơi nắng ngay trước cổng trại… đặc
biệt mỗi cán bộ khi đi ngang qua đều đấm đá một vài cái thật mạnh gọi là
tỏ lập trường giai cấp. Nếu còn sống, hầu hết các nạn nhân nầy đều mang
chứng bất bình thường về tâm sinh lý: khủng hoảng đến điên loạn. Người
Việt Nam có phong tục thờ cúng Tổ Tiên, Ông Bà và mỗi năm có nhiều gia
đình đến chục cái giỗ, còn nơi trại giam nầy vào những năm cao điểm, các
phiên toà lưu động mở ra liên tục và nhiều sự cố xảy ra trong các buổi
lễ tế đảng đầy oan nghiệt nầy, và có lần khi các tử tù được chở từ khu
tử hình đến trại giam, nơi họ đang thụ án và trốn trại, các tử tù tạm
thời được nghỉ tại nhà văn hoá cho đến giờ ra trường bắn sát bên trại
giam, những thủ tục cuối cùng đã diễn ra không suôn sẻ, khi các tử tù
vẫn cứ ngậm cứng miệng không cho nhét quả chanh vào miệng và còn hô vang
các câu khẩu hiệu khiến các tù tự giác đều nghe thấy rất rõ, thế là đã
có một cuộc ẩu đả xảy ra dù cho các tử tù đang bị cùm tay chân rất kỹ.
Người ta cũng chứng kiến trong số các tử tù có cả những sĩ quan tập
trung trốn trại lên chung thân, và đào thoát tiếp không thoát bị lên tử
hình.
Tất cả đều được chôn cất và chôn rất cạn để mọi người ngửi thấy mùi xú uế mà làm gương.
Từ khi các tù nhân bị bắt vào trại tạm
giam, cho đến khi chuyển sang các trại lao cải, lúc nào cũng được nhắc
nhở học nội qui. Nếu còn ở các trại tạm giam thì mỗi sáng ê a hết gần
nửa buổi.
Nhưng riêng ở trại Thung lũng tử thần
người ta thấy các tù nhân xếp thành hàng đứng trước bảng nội qui to
tướng giữa sân trại giam gọi là học tập nếp sống văn hoá mới; thật sự họ
bị phạt vì các vi phạm khác nhau: trên tay mỗi người đều ôm các món mà
họ đánh cắp từ tài sản hoa màu của trại giam như ôm quả dừa vì hái dừa
trộm, bưng cả thúng đậu hay vác cả quầy chuối vì lén đốn hạ những thứ
ấy… nhiều người ngất xỉu vì đói lả giữa trưa nắng và tất nhiên không
được đội nón mũ gì hết với nhiệt độ thường trên bốn mươi độ C.
Một hôm các tù nhân đang bị kỷ luật nầy
chứng kiến các quản giáo và quản chế chạy trối chết tìm chỗ trốn, thậm
chí chui cả rào… sau đó là tiếng quát tháo cùng sự xuất hiện của cái
ban trưởng trại, y la hét thật to tuyên bố tha cho những con người đang
học nội qui, rồi chửi bới cấp dưới là ai đã quyết định có sự đối xử với
tù tồi tệ đến thế… sẽ còn đâu sức khoẻ mà chúng cải tạo tiếp.
Song các tù nhân đang có mặt trong các
phòng của trại giam lại một phen hú vía, mất hồn, tưởng rằng sắp có sự
khủng bố gì đây vì họ không biết cán bộ cấp dưới đang hoảng hốt chạy
trốn cấp trên. Và cấp trên chạy trốn cấp cao hơn nữa, đó là nét đặc thù
của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Người ta cũng chứng kiến: mỗi chiều có
một Linh mục tù nhân cầm gậy chạy khắp trại giam, trạc ngũ tuần, mọi
người biết ông là một tuyên úy trước đây. Trong tù ông luôn phấn đấu từ
đội trưởng lên đến trưởng ban thi đua, ông cầm gậy chạy và thọt vào các
góc tường để xem có ai đó đào khoét chuẩn bị trốn trại. Cũng may, trong
số hàng trăm Linh mục ở tù, tập trung tại đây đến vài chục, chỉ có một
mình ông là đi trên con đường: giương cây gậy toan đập anh em.
Có một cựu trung tá, trưởng ban thi đua:
ai cũng khiếp tởm nhưng lại không sợ, vì y thật sự xét cho cùng chỉ là
con người ham sống như mọi hữu thể mà sinh sợ hãi. Nó không đội lốt, bên
dưới lớp áo, đó là con người thật sự, con người đáng thương và ta luôn
có thể tránh được, cũng như y luôn tránh những nơi mà y biết chắc chắn
có vấn đề phải báo cáo. Trung tá Mai, một cái tên không thể quên được
với các tù nhân từng trải qua trại Thung Lũng Tử Thần. Và có một Đại tá
khi vào trại giam lại “chuyển ngành”, các sĩ quan đã xếp thành hàng
trịnh trọng chào lúc ông lao động trở về, họ đồng loạt hô lớn: -Chào Đại
tá đã chuyển ngành. Chắc là Đại tá Tí đã báo cáo anh em về những vấn đề
gì đó…
Tất cả – nó đều đáng thương, họ chỉ là
nạn nhân của một cơ chế giam giữ không nhằm chữa trị con người mà chỉ
cốt triệt hạ con người.
Tư bản Chợ Lớn, cộng sản gọi là
tư sản mại bản: Họ là những nhà kinh doanh thuộc miền Nam trước đây,
khi cộng sản miền Bắc cai trị miền Nam, họ bị kết án là tư sản mại bản,
kẻ hai mươi năm, người mười năm.v.v. Những thành phần án cao vào hàng tỷ
phú đều có mặt tại Thung lũng tử thần, trông người nào nước da vẫn còn
tốt, mặc dù đã qua nhiều năm trong tù, chỉ duy nhà tư bản họ Lý bị các
tù nhân khác tạc nước sôi, may tránh kịp, suýt nữa không còn da mặt, nhà
tư bản nầy rất keo kiệt với bạn tù, nhưng lại thường xuyên đút lót cán
bộ để được an nhàn, khỏi phải lao động khổ sai. Đặc điểm của các nhà tư
sản ở đây là không có người nào mà không hối lộ để được yên thân. Tất
nhiên tùy theo sự liêm sỉ mà cách thể hiện có khác nhau, như nhà tỷ phú
họ Lưu người được lòng anh em nhất, ông chỉ cho khi chúng xin và thường
xuyên giúp đỡ các tù nhân khác về thuốc men. Mặc dù đã ngoài sáu mươi,
nhưng vẫn đi lao động như anh em, còn hầu hết đều tìm cách chạy chọt để
núp bóng dưới hình thức nầy hoặc hình thức khác, nghĩa là trong tù họ
vẫn giàu có hơn, cũng như ít vất vả hơn những người khác. Ông tỷ phú họ
Lý cất giữ lương thực như chính ông thường nói phải dự phòng sáu tháng,
nên lão luôn xin giữ kho vì các giỏ thăm nuôi của ông bao giờ cũng chiếm
nhiều chỗ nhất trong đó. Hằng ngày ông dùng bữa, thức ăn sắp xếp theo
từng lớp, nếu có ai đến xin giúp đỡ, ông vui vẻ, nhưng chỉ cho lớp trên
bao giờ cũng là món dưa cải hoặc củ cải muối, còn bên dưới, ông nói:
dùng cho người bị tiểu đường, thật sự chỉ có ông và Trời biết… Đặc biệt
có nhà tư bản điện ảnh đã trở thành thầy thuốc nam Trương Dĩ với những
món thuốc đặc trị cho các tù nhân trong nhà tù cộng sản mà ông đã góp
phần bào chế như Xuyên Tâm Liên, Khung Chỉ… nhiều buổi sáng chỉ cần đi
khám bệnh xong, khỏi phải điểm tâm vì người nào và bất cứ bệnh gì cũng
được phát một nắm thuốc nam loại nầy đến no luôn. Có nhà tư sản tên là
Hương xin được làm tạp dịch nấu nước phục vụ cán bộ, và hôm nào có miếng
cơm cháy, khoai mì nám đen lại khen ngon ráo riết. Tất cả đều thay đổi
từ khi con người bắt đầu bước vào trại lao cải, nhưng không ai rõ chính
mình đã bị biến đổi tự bao giờ. Ở đây, Tôi đang sống và bằng mọi cách
Tôi phải sống, cũng không ai còn nghĩ cách làm giàu như ưu thắng liệt
bại; một số anh em tù thích ngồi bên họ sau những giờ lao động, ít ra
cũng được mời hút thuốc, riêng họ Lý thì trong hộp thuốc mời của ông ta
có hai ngăn, một ngăn thuốc ngon chính hiệu, còn ngăn kia để mời là
thuốc có trộn với bột cưa tán nhỏ. Giờ đây họ nói nhiều về gia đình và
thật sự thâm sâu trong lòng mỗi người đều muốn được sum họp bên mái ấm
gia đình hạnh phúc mà vốn họ đều có gia đình, nhưng theo cách mô tả về
gia đình của họ: gia đình chỉ là nơi để phục vụ họ, chứ không phải là
nơi mình được phục vụ hầu mang lại hạnh phúc… vì người nào nếu không vợ
hai, vợ ba, cũng ăn chơi trác táng không sao kể xiết với các đêm màu
hồng, nhất dạ đế vương… Và các tù nhân ngoài cái đói khát, bệnh tật,
chết chóc lại rất thích nghe những chuyện nầy.
Những tù nhân qua nhiều triều đại:
có
người đã thụ án đến ba mươi hai năm với nhiều bản án chồng chất từ chế
độ nầy sang chế độ khác, phần lớn họ lập công trong tù bằng cách triệt
hạ người khác để lấy điểm với kẻ đương quyền, nên lúc chế độ nầy sụp đổ
những kẻ bị trấn áp ngày trước, nay lên cầm quyền và thế là họ bị kêu án
tiếp… Con đường cũ cứ lập lại vì trên đất nước nầy các thế lực bao giờ
cũng là các đối cực, nên kẻ lên ngựa người xuống xe là điều không tránh
khỏi, nhất là đối với những kẻ gây hận thù mà vốn hận thù chỉ thêm thù
hận. Tù nhân ba mươi hai năm lưu đày nầy cướp ngân hàng từ năm mười tám
tuổi, dưới thời Pháp thuộc, gây án mạng trong tù bị kêu án tiếp, từng
là trưởng ban trật tự khét tiếng ở nhà tù Côn đảo, đàn áp tàn nhẫn dã
man với các tù nhân cộng sản, nên khi những người cộng sản chiến thắng, y
nhận được một cái lệnh tập trung vô thời hạn và đã mười lăm năm trôi
qua trong tù dưới chế độ cộng sản… y tâm sự: bây giờ thì tôi sợ rồi,
ngày trước nhiều lắm chỉ đánh đá vài cái là xong, có khi đánh trúng chỗ
huyệt chết ngay, chứ không có sự trả thù dai dẳng như bây giờ. Người tù
xấu số nầy chỉ tay về phía Nhà đỏ, nơi những con người đang bị sấy khô
trong các cái hộp và chết dần dần vì quá khát, quá đói cùng những cú đấm
đá vô chừng vào mỗi chiều trong giờ điểm danh. Ông ta làm thợ hớt tóc
trong trại giam, ánh mắt y luôn dáo dát, sợ hãi, đây cũng là nét chung
của các tù nhân thuộc nhóm tù từ Côn Đảo được đưa về đây: làm gì cũng
cảnh giác, luôn luôn sợ các bạn tù cũng như công an theo dõi.
Và một người đồng bọn, cũng tù Côn đảo,
anh ta cao to lớn, do vậy các nhu cầu cơ thể có lẽ cũng nhiều, mỗi chiều
sau giờ lao động tù nhân nầy đi đánh bắt thằn lằn về kho như cá cơm.
Nhưng đó cũng lại là cái cớ để gặp gỡ với người nầy, người khác nhất là
những người mới thăm gặp để vòi thức ăn, nếu ai không cho y sẽ gây
gổ…Trong tù dạng xin ăn này không thiếu. Y bị đi Nhà Đỏ nhiều lần nhưng
vì tính chất hình sự nên sớm được thả ra, và rồi vẫn ngựa quen đường
cũ. Trước con mắt hớt hãi của y như đi tìm mồi, ai thoáng thấy cũng ái
ngại lo tránh xa, khiến người ta nghĩ đến học thuyết ba thế giới của Mao
Trạch Đông: hình ảnh các nước thứ ba đến một lúc nào đó vì không kiềm
chế được nữa đối với các nước giàu.
Tuổi trung bình của nhóm nầy từ bốn mươi
đến năm mươi, người nào cũng trông như khô đét lại, còn nếu trông như
mập thì đó là bị sưng phù, mỗi khi đội hình của họ ra khỏi trại, công
việc đầu tiên của mỗi người là nhắm vào những đám khoai mì, cho dù quản
giáo, quản chế có la réo, họ cải thiện cho bằng được dù mỗi người chỉ cố
vơ không hơn một nắm lá khoai mì để về làm dưa. Người nào may mắn lắm
mỗi năm gia đình đến thăm một lần, nhưng hầu như rất ít, thời gian cách
ly xã hội quá lâu khiến nhiều người không còn biết thân nhân mình bây
giờ ở đâu. Và về mặt xã hội, sự gánh chịu lâu năm đối với người trong tù
trở nên gánh nặng mà lâu dài các gia đình không thể chịu nổi, nhất là
tù hình sự thường gia đình bỏ cuộc rất sớm.
Khi đội hình kia trở về trại giam, họ
chạy khắp các phòng lục lạo trong các chỗ rác rưởi, thật đáng thương để
tìm xem thức ăn có còn sót chút nào hay không, một số khác tìm cách phục
vụ các tù nhân có thăm gặp hầu mong xin được một chút mắm muối gì còn
sót lại… “Cuộc đời là một sự chuyển tiếp và suy tàn” như triết
gia Nietzche đã nói, nhưng nếu sự chuyển tiếp đã là một sự suy tàn thì
còn gì là phủ định của phủ định để gieo niềm tin nơi mai hậu. Các tù
nhân thuộc nhóm nầy khi được hỏi về đức tin tôn giáo họ rất thờ ơ: có
Chúa, có Phật cũng như không Phật – không Chúa. Nhưng họ không phải là
kẻ vô thần. Người nào cũng trong mệt mỏi, những bước chân còn lại trên
trần gian nầy dù có rán lê bước nhưng đã quá uể oải. Từ oải oải được
nhắc đến nhiều bằng các từ chia cơm, chia nước, cải thiện… trong cuộc
sống hằng ngày. Hầu hết họ bị sốt nhẹ vào buổi chiều và có khi sốt cao
cả nguyên ngày, có một cái gì đó đang chờ đợi họ. Nó không to lớn lắm và
họ cũng không cầu nguyện. Nó là dấu chấm hết. Họ tâm sự và tự hỏi không
biết mình sinh ra để làm gì, để triệt hạ con người, để giết người, sinh
mâu thuẫn hận thù, lúc nào cũng phải nói láo với vợ con, bạn hữu và cả
chính mình vì chắc chắn không thể nói thật được, với họ thế gian nầy có
cái nói thật sẽ chết ngay. Giờ đây trước giờ có thể lâm tử bất cứ lúc
nào của mỗi người: cái thật hay không thật cũng chỉ là cái giới hạn,
chết có dù cho là hết, nhưng trong họ khi có dịp tiếp xúc và hiểu được
tâm trạng người nào cũng có nỗi băn khoăn: giá như ta đã làm gì mang lại
một chút hữu ích cho đồng loại vẫn dễ nhắm mắt hơn lúc ra đi. Trong
nhóm nầy có cả các tướng cướp khét tiếng ở miền Trung và miền Nam như họ
Mã, họ Điền, họ Lâm… Họ lầm lì, lúc rảnh rỗi thì đi qua đi lại bên
trong các hàng rào kẽm gai và như hầm hừ không nói năng gì cả, theo cuộc
sống có lúc họ cũng chạy, nhưng phần lớn họ đều có đàn em và người phục
vụ hay hoà đồng cùng chia cơm nước muối, lá khoai mì muối dưa với anh
em khác. Người nào cũng chung thân hoặc tử hình được tha tội chết, và đố
ai biết cọp khi thả về rừng.
Những người ‘yêu nước’ từ Mỹ trở về:
rải rác quanh khắp trại giam đều có những nấm mồ chôn theo tập thể gọi
là Thương Tín, đúng ra là những người trở lại quê hương trên con tàu
mang tên Việt Nam Thương Tín. Họ là những người rời bỏ Việt Nam khi cộng
sản nắm quyền, nhưng khi qua Mỹ với nhiều lý do ban đầu như nhớ vợ con,
cha mẹ, môi trường vừa đang sống nay thoáng chốc đã mất… Trong cơn
khủng hoảng và chao đảo: họ muốn trở về. Nước Mỹ vốn tôn trọng tự do và
hơn ai hết các nhà lãnh đạo nước Mỹ hiểu rất rõ thế nào là chế độ mất tự
do, nên đã tạo cho mỗi người nhiều cơ hội cuối, theo lời kể của những
người trở về, trước khi lên tàu họ bước xuống con đường hầm có hai ngõ
rẽ để ở lại Hoa Kỳ hay lên thẳng con tàu Thương Tín trở lại Việt Nam.
Người Mỹ muốn giữ danh dự cho những người muốn ở lại, vì trước đó những
người nầy đã biểu tình đòi về nước rất hung hăng. Có người sớm nhận ra
vấn đề và nhờ đường nhân đạo nầy được ở lại Hiệp Chủng Quốc và thoát
chết. Song số phận của những con người trở về, khi con tàu vừa cập bến
họ đều bị giam giữ ngay, trong tuần lễ đầu tiên đã có người tự tử, Theo
lời kể có viên trung uý trở về oan ức quá mà tự tử: tất cả đều bị kết
tội gián điệp cho CIA. Nhiều người khác cũng tự tử khi chuyển đến các
trại lao động khổ sai. Lúc đầu họ thường xuyên bị nhốt kín vì là gián
điệp trở về Việt Nam để quấy phá, về sau số còn lại được ra ngoài lao
động, nhưng lúc vào trại cũng bị khoanh vùng không cho liên hệ với ai.
Các tù nhân chỉ được gặp họ một cách thoả mái trên hiện trường lao động,
nơi thỉnh thoảng gần đó có nhiều anh em Việt Nam Thương Tín đã bỏ cuộc.
Các tù nhân thường đắp mộ và rắc hoa cỏ dại lên mộ của họ. Mọi người
cũng không rõ trên nghĩa trang chính thức của trại giam có bao nhiêu
người Thương Tín trong số hàng hàng lớp lớp nằm xuống nơi đây, và riêng
họ bị chôn phân tán khắp nơi. Những ai đến cải tạo tại trại Xuân Phước,
mệnh danh là Thung Lũng Tử Thần, thường không quên hỏi về những người tù
đặc biệt nầy, rồi câu trả lời trở thành lời ghi nhớ mãi trong ký ức các
tù nhân: Họ đã suy sụp tinh thần và chết dữ lắm.
Thung Lũng Tử Thần không xa Sài Gòn lắm,
chưa tới năm trăm kí lô mét nhưng phải mất ba ngày tàu lửa cùng ô tô
cộng xe kéo mới đến nơi, nếu vào mùa mưa lũ phải mất đến cả chục ngày
mới về lại đến nhà. Ấn tượng nhất là chiếc xuồng bé nhỏ đưa thân nhân
sang sông, có lúc như muốn chìm hẳn theo dòng nước cuốn… Mỗi chiều sau
giờ cơm nước trước lúc điểm danh, họ hay đi rà qua rà lại như để tìm ai
đó… Song vô vọng, hàng rào kín thật chặt, trông họ rất đăm chiêu, ân
hận, sự lầm lỡ trong phút chốc bồng bột đầy cảm tính có liên can đến vấn
đề chính trị đã đưa họ xuống tận đáy địa ngục. Địa ngục không phải ở
kiếp sau mà nơi đây dưới lửa thiêu đốt của bàn tay con người mới đáng sợ
và kinh hãi hơn những gì được phát họa về sự trừng phạt của Thượng Đế.
Tử vì đạo:
đó là một Linh mục giữ
bánh lễ và bị kỷ luật, bị đánh đến trào máu, chết vì tội truyền bá tôn
giáo, trong tù mà còn giữ Mình Thánh Chúa… Các tù nhân tiếc thương đến
viếng vị Linh mục khả kính nầy lần cuối cùng tại bệnh xá trại giam,
người nằm trên chiếc giường gỗ để khám cho các bệnh nhân, mũi và miệng
đầy máu do bị đánh đêm qua. Tên Người là Nguyễn Quang Minh, vụ Nhà thờ
Vinh Sơn, thuộc miền Nam Việt Nam trước đây, xảy ra khi đất nước vừa mới
thống nhất. Không ai biết rõ Người liên can đến chính trị ở mức độ nào
vì con người là một hữu thể chính trị. Song Người sống hiền lành, giúp
đỡ mọi người, những ai gần gũi Ngài đều rõ: không bao giờ Ngài đề cập
đến chính trị, ngoài sống Phúc âm. Ngài chết đi, không ai biết có là
Chân Phước hay không, nhưng chắc chắn Người đã chết vì Đức Tin .
Tử đạo vì nhân quyền:
Cái chết của
một Linh mục bất khuất, Người đấu tranh cho quyền của con người được
sống tự do, bình đẳng, tự do tôn giáo, chống lại những bất công của chế
độ mà xuyên suốt các trại giam ai cũng biết: Linh mục Nguyễn Luân, án
chung thân, những chuỗi ngày tù của vị Linh mục trẻ nầy là kỷ luật và
kiên giam. Người đã chết tại bệnh xá Thung Lũng Tử Thần vì một ung nhọt
nhỏ sau lưng bị nhiễm trùng loét dần đến chết, tuổi ngoài bốn mươi.
Những bài viết, những lời hô hào về nhân quyền của Người được truyền
khắp trại giam, quen thuộc như những bài cầu kinh nhật tụng sáng tối.
Nguyễn Quang
* Trích đoạn từ tác phẩm Biển Đỏ VN của N.Quang
No comments:
Post a Comment