Kể
 từ giờ phút tên phản tặc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng để dâng Miền 
Nam Tự Do vào tay của cộng sản Hà Nội; thì hàng năm cứ đến ngày Quốc Hận
 30- 04, là mọi người dân Việt, dù ở quốc nội, hay nơi hải ngoại cũng 
đều cảm thấy xót đau; bởi tất cả đều không bao giờ quên; và
 mãi mãi vẫn nhớ đến một ngày tang thương đã trùm phủ xuống quê hương. 
Ngày nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay giặc thù cộng sản.
Ngày 29/03/1975. Nhưng 
riêng thành phố Đà Nẵng quê hương tôi vì nhờ có «công lao » của « Lực 
lượng Hòa hợp Hòa giải Phật Giáo Thống Nhất (Ấn Quang)» đã đưa từng đoàn
 xe ra tận núi rừng để đón rước bộ đội Bắc Việt vào thành phố sớm hơn 
một tháng.
   Từ ngày vượt biển ra hải ngoại cho đến 
hôm nay, tôi vẫn hằng mong đợi một bài viết thật trung thực và đầy đủ về
 những cuộc bạo loạn, cũng như những ngày cuối cùng của thành phố Đà 
Nẵng trước khi mất nước. Song, cho đến giờ phút này tôi vẫn chưa hề 
thấy, nên tôi, một phụ nữ không biết gì về văn chương lại thấp kém về 
mọi mặt. Nhưng, bởi mấy chục năm qua lòng tôi vẫn xót đau, khi những 
hình ảnh của những người đã bị chết oan, trong đó có những bé thơ, cứ 
hiện về như trách móc bảo tôi hãy lên tiếng. Vì thế, tôi phải hết sức cố
 gắng để viết lại những gì mà chính tôi đã mắt thấy, tai nghe, những 
điều mà có rất nhiều người đã biết, nhưng vì một lẽ nào đó nên tất cả 
đều im lặng. Họ không muốn hay không dám nói.
Tôi đã chứng kiến từ ngày 20/03/1975,
 với từng đoàn người di tản từ các tỉnh Trị-Thiên, Nam-Tín-Ngãi, đổ về 
Đà Nẵng mỗi ngày một đông, họ chỉ mong được lên tàu di tản vì ở những 
nơi đó VC đã hoàn toàn kiểm soát, không còn gì để hy vọng.
Tại Đà Nẵng, trong khi từng đoàn người 
bồng bế nhau chạy xuống bến Bạch Đằng, thì từng loạt pháo kích của VC 
bắn theo nổ chặn đường, làm kẻ chết, người bị thương, ai còn sống, bỏ 
tất cả lại để chạy thoát thân. Nhưng rồi chuyến tầu cuối cùng cũng đã 
rời bến Bạch Đằng; những người còn lại đành quay trở về. Trên đường phố 
từng toán người dìu dắt nhau trở lại, sau khi trở về nhà, họ đóng cửa, 
chỉ nhìn ra đường qua cửa sổ, họ đã sống trong những giờ phút hãi hùng, 
chờ đợi, không biết những gì sẽ xãy ra. Thành phố ngưng mọi sinh hoạt.
Thầy chùa đã đưa xe ra tận núi rừng để đón Cộng quân vào Đà Nẵng:
Tôi vẫn nhớ mãi về buổi sáng 
29/03/1975, lúc ấy, vì phải đi tìm người thân bị thất lạc nên tôi có mặt
 tại ngã ba Huế, nhìn kim đồng hồ tay đương chỉ đúng tám giờ, khi nghe 
những tiếng động ồn ào, đồng bào mở cửa nhìn ra. Tôi cùng đồng bào đều 
nhìn thấy trên đường phố, từng đoàn xe đủ loại, xe Jeep, xe chở khách, 
xe nhà binh của các đơn vị quân sự bỏ lại. Trên các đầu xe, tất cả đều 
có cắm song song một lá cờ ngũ sắc của Phật giáo và một lá cờ nửa đỏ, 
nửa xanh, ở giữa có ngôi sao vàng của «Mặt trận Giải phóng miền Nam » 
tất cả đều có gắn loa phóng thanh đang ầm ầm tiến ra hai ngã một về phía
 Hòa Mỹ hướng ra đèo Hải Vân để đi Huế; và một về phía Phước Tường hướng
 về Hòa Cầm để đi vào Tam Kỳ-Quảng Nam. (xin lỗi tôi phải nói như thế, 
để các vị chưa biết về Đà Nẵng sẽ dễ hiểu hơn).
Đến 13 giờ cùng ngày, cả thành phố đều nghe những tiếng hô vang dậy:
« Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp-Hòa
 giải Thị bộ Đà Nẵng, yêu cầu đồng bào hãy mau mau mở cửa ra để chào 
mừng và hoan hô bộ đội giải phóng miền Nam anh hùng! ».
Cả thành phố đều mở cửa nhìn ra. Trên 
đường phố từng đoàn xe từ hai ngã đang tiến vào thành phố, đồng bào nhìn
 kỹ thì ra là hai đoàn xe đã ra đi hồi tám giờ sáng, chỉ khác hơn là 
trên các xe bây giờ chở đầy bộ đội miền Bắc, còn được cắm thêm những 
cành lá mà trước kia VC thường gọi « cành lá ngụy trang ». Tiếp theo sau
 là những xe thiết giáp trang bị đầy đủ hỏa tiển phòng không, đại bác và
 tiếng hô vẫn tiếp tục vang vang, bây giờ mọi người mới nhìn thấy rõ 
ràng, tất cả các xe, ngoài người tài xế, còn có một « ông hoà giải » và một « vị sư » mặc áo cà sa vàng ngồi bên cạnh, và những tiếng hô đó cứ thay phiên phát ra từ hai cái mồm của hai người này.
Đến chiều, vẫn chưa tìm được người thân, 
tôi được tin là có nhiều người đã bị « An ninh Phật giáo » bắt giam ở 
các « chùa », nên tôi đến chùa Pháp Lâm tức chùa tỉnh Giáo hội Phật giáo
 Quảng Nam – Đà Nẵng, số 500 đường Ông Ích Khiêm ĐN, để cầu cứu « Thượng
 tọa » Thích Quang Thể, Chánh đại diện Phật giáo QN-ĐN. Vì thế, khoảng 
17 giờ tôi nhìn thấy một chiếc xe Jeep nhà binh dừng lại ngay cổng chùa,
 từ trên xe có hai « thầy » bước xuống đó là « Đại đức » Thích Minh Tuấn, người Huế, Hiệu trưởng trường trung học Bồ Đề, Phó Đại diện tỉnh Giáo hội QN-ĐN, Thích
 Minh Tuấn là một trong những người lãnh đạo trong Viện Hóa Đạo 1 của Ấn
 Quang. Sau đó là Thượng tọa-Thị giả của Hòa Thượng Thích Huyền Quang 
tại Tu viện Nguyên Thiều. Và hiện nay là Thượng tọa Viện chủ Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Và « Đại đức » Thích Như Ký tức
 Mai Đăng Em, quê ở Mân Lập, quận 3, Đà Nẵng, Tổng thư ký Giáo hội Tăng 
già Quảng Nam – Đà Nẵng. Tiếp theo là hai « ông hòa giải » quần tây, áo 
sơ mi trắng, cả hai cùng mang băng đỏ như hai «thầy ». Cả bốn người cùng
 vào nhà khách của chùa gặp Thượng tọa Thích Quang Thể.
Mở đầu bằng giọng Huế, Thích Minh Tuấn nói:
“Bạch Thượng Tọa, tôi đã đưa xe ra tận đèo Phú Gia ruớc sư đoàn Sao Vàng của tướng Nguyễn Chon vào thành phố, mọi việc đều tốt”.
Tiếp theo, Thích Như ký nói:
“Bạch Thượng Tọa, tôi đã đưa xe 
vô tận Hà Lam, Thăng Bình, đã đón bộ đội ta, do Đại Tá Phan Hoan chỉ huy
 vào thành phố một cách an toàn”.
Thượng tướng Lê Quang Hòa (tên 
thật Lê Thành Kim, 1914-1993), nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng 
thanh tra Quân đội, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chính ủy đầu tiên 
Quân đoàn 1, Chính ủy Cánh quân Duyên hải rồi cánh quân Đông trong Chiến
 dịch Hồ Chí Minh. 
« Thượng tọa » Thích Quang Thể
 gật đầu vui vẻ định nói gì với hai « thầy », Nhưng ngay lúc đó Lê Quang
 Hòa (Trung tướng Việt cộng) tức Nguyễn Văn Hòa, quê Điện Bàn, Quảng 
Nam, tập kết ra Bắc trở về, là Tư lệnh phó quân khu 5 cùng đi với mấy 
tên cận vệ bước vào chùa, Thượng Tọa Thích Quang Thể đứng lên chào, Lê Quang Hòa nói:
« Tôi đến đây để thăm chùa, đồng 
thời để nói lên lời cám ơn Thượng Tọa và giáo hội đã tích cực trong công
 việc đưa, đón bộ đội giải phóng vào thành phố, một thành quả không ngờ,
 vì khi nghe Ngô Quang Trưởng tuyên bố: “Các Lực luợng Quân-Cán-Chính 
tại Đà Nẵng sẽ tử thủ và có 45 ngày để dân Đà Nẵng di tản”. Chúng tôi 
nghĩ là sẽ có môt lực luợng hùng hậu, nên Bộ tư lệnh quân khu 5 đã dự 
tính lập vòng đai bao vây trong vòng ba tháng, mới có thể vào thành phố 
Đà Nẵng được. Vì vậy, khi các thầy đưa xe ra đón, chúng tôi không tin, 
nên phải lấy tin từ quân báo thật chính xác, mới dám cho bộ đội lên xe 
của các thầy. »
Quay sang hai « thầy » Lê Quang Hòa nói:
« Tôi đặc biệt khen ngợi Đại đức 
Thích Minh Tuấn đã đưa xe ra tận đèo Phú Gia để đón Sư đoàn Sao Vàng của
 tướng Nguyễn Chon vào thành phố một cách an toàn. Tướng Chon rất vui 
mừng khi được trở lại quê hương Thanh Khê, Đà Nẵng, và công lao của Đại 
đức Thích Như Ký cũng không kém vì Đại đức cũng đưa xe vào tận Hà Lam, 
Thăng Bình để đón bộ đội của Đại tá Phan Hoan vào thành phố không hề gặp
 trở ngại”.
Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy Thượng tọa Thích Quang Thể quay vào phía góc chùa nhìn tôi một cách ái ngại. Tôi hiểu ý, nên liền chào Thượng tọa và ra về.
Sau đó, “Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo” đã hướng dẫn các đoàn xe của bộ đội VC vào chiếm giữ các đơn vị của quân đội cũ, và lại dùng loa phóng thanh kêu gọi:
« Yêu cầu tất cả đồng bào hãy treo cờ Phật giáo! »
Phải công nhận là Phật giáo nói Phật tử 
chiếm 80% là đúng, Nhưng chỉ đúng trong những ngày này mà thôi, vì thấy 
các « chùa » đồng loạt treo cờ «Mặt trận giải phóng » cũng như thấy khí 
thế của Phật giáo như vậy, nên nhiều người bình thường chỉ theo đạo thờ 
cúng ông bà hoặc Khổng Giáo nhưng vì muốn an thân, họ đã đến các « chùa »
 mua cờ ngũ sắc đem về treo trước cửa, xem như là lá bùa hộ mệnh. Trừ ba
 tôn giáo đã chấp nhận mọi thứ, cương quyết không treo cờ Phật giáo đó 
là Công Giáo, Tin Lành và Cao Đài.
Ngoài ra, để lập công với « cách mạng » Đại đức Thích Minh Tuấn,
 đã nhân danh: « Là phó đại diện tỉnh giáo hội Phật giáo QN-ĐN, Hiệu 
trưởng trường Trung tiểu học Bồ Đề, xin dâng hiến tất cả các trường Bồ 
Đề và các cơ sở khác của giáo hội cho cách mạng ». Thấy vậy, có nhiều Phật tử phản đối, Thích Minh Tuấn trả lời:
« Bây giờ mình đâu có cần gì 
những thứ đó nữa, vì chúng ta có công đánh đuổi Mỹ-Ngụy, thống nhất đất 
nuớc, mọi việc Giáo hội cần đến thì có chính phủ giúp đỡ».
Khi nói đến LLHG, thì ngoài những công lao trên họ còn có những thành tích khác đáng kể như sau đây:
Trong lúc đồng bào trên đường di tản, LLHG đã xuống tận bến Bạch Đằng dùng loa phóng thanh kêu gọi:
« Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp, 
Hòa giải thị bộ Đà Nẵng. Trụ sở đặt tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường Ông
 Ích Khiêm Đà Nẵng, thiết tha kêu gọi đồng bào đừng di tản, hãy ở lại 
với chính quyền cách mạng ; ngụy quân, ngụy quyền cấp bậc, chức vụ gì sẽ
 được trả nguyên cấp bậc và chức vụ ấy. »
Vì thế, mà ở trại cải tạo T.154, Tiên 
Phước, Quảng Nam, tôi biết có người không phải sĩ quan mà đã khai là « 
Trung úy », mục đích để được « trả lại »…cấp bậc cũ! Nhưng không ngờ, 
rồi sau đó đã phải ở tù như những sĩ quan thật. Và rồi, cấp bậc, chức vụ
 gì thì phải ở tù theo cấp bậc, chức vụ ấy!!!
Nhân đây, tôi xin viết thêm một trường hợp khác. Trong cơn say máu 
người, Hòa giải Phật giáo cũng đã đến nhà ông bà Trần Quốc Thái ở số 06 
đường Lý Thường Kiệt, Đà Nẵng, Nhưng khi ập vào nhà thì chỉ còn căn nhà 
trống. Ông bà Trần Quốc Thái đã chạy thoát, mất mồi, chúng tức tối la 
hét, đập phá lung tung. Tôi nghĩ là ông bà Trần Quốc Thái đã có được một
 hồng ân quá lớn, nếu không thì chúng đã xé xác ông rồi, nhẹ lắm cũng 
như ông Trần Sô vậy.
Nhân đây, tôi xin nói rõ về ngôi nhà này:
 Tôi biết ông bà Trần Quốc Thái đã vay muợn của nhiều người để xây cất, 
Nhưng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bọn đâm thuê chém mướn giết 
chết, Hội đồng Gian nhân Phản loạn đã tịch thu với lý do là « tài sản 
của đảng Cần Lao » và dùng làm cơ quan Nha Cảnh sát Quốc gia vùng 1. Ông
 bà Trần Quốc Thái đã dắt con cái đi ở nhờ nhà người khác, Nhưng cũng 
phải thắt lưng, buộc bụng để có tiền trả cho đến mười năm mới hết nợ làm
 nhà.
Năm 1973, vì truy tìm mãi vẫn không có bằng chứng là « tài sản của Cần Lao » nên ngôi nhà mới được trả lại cho ông bà Trần Quốc Thái.
Đến năm 1975, Hòa giải Phật giáo chiếm giữ, sau đó giao cho VC lấy làm Bộ chỉ huy công an vũ trang.
Từ ngày 30/04/1975, Việt
 cộng ra lệnh truy tầm ông Trần Quốc Thái, « Bí thư đảng Cần Lao miền 
Trung ». Tôi cũng biết ông Trần Quốc Thái là người Bắc di cư, thời Đệ 
Nhất Cộng Hòa có làm Quận trưởng quận Điện Bàn, Quảng Nam, còn có Cần 
lao hay không thì khó biết được, vì đảng Cần Lao không công khai hoạt 
động như các đảng phái khác
    Một nạn nhân khác là ông Trần Quốc Dân, người
 Thanh Khê, quận 2, Đà Nẵng, đi kháng chiến chống Pháp, sau đó là Thiếu 
tá Quân đội Bắc Việt xâm nhập vào Nam. Lúc đó, ông là Trung đoàn trưởng 
Trung đoàn Sao Vàng, (sau là Sư đoàn Sao Vàng) Nguyễn Chơn cũng người 
Thanh Khê, Đà Nẵng là Trung đoàn phó. Ông là người đầu tiên rời bỏ hàng 
ngũ VC trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia vào năm 1962. Ông kể với người 
thân:
“Trước đó tôi có gặp người của ông 
Ngô Đình Cẩn, nên mới dám quyết định trở về. Sau khi quyết định, tôi đã 
lợi dụng trong một lần giao tranh với quân đội VNCH tại chiến trường Đại
 Lộc, Quảng Nam, tôi vượt sông Thu Bồn và theo sự hướng dẫn của người 
tôi đã gặp, tôi được gặp ông Ngô Đình Cẩn. Và tôi được sự giới thiệu của
 ông Cố vấn nên tôi vào Sài Gòn trình diện Tổng Thống Ngô Đình Diêm., vì
 tôi tin tưởng rằng Tổng Thống chắc chắn hiểu được những người đi tham 
gia kháng chiến. Và tôi đã nghĩ đúng, vì khi gặp mặt Tổng Thống, sau khi
 nói rõ về mình và trình bày ý nguyện của tôi, thì Tổng Thống dạy rằng:
Tôi đã hiểu được chú em, bây giờ đáng
 lẽ ra tôi trả lại em quân hàm Trung tá, vì ngoài đó có cấp Thượng tá, 
Nhưng thôi vì danh dự Quốc Gia em hãy nhận quân hàm Thiếu tá. Tôi xin 
được ra chiến đấu, Nhưng Tổng Thống bảo:
Không được, hãy về đoàn tụ với gia 
đình trước khi nhận công tác. Và Tổng Thống ban thưởng tôi ba trăm ngàn 
đồng từ tay của Tổng Thống”.
Ông Trần Quốc Dân trở về Đà Nẵng, sau một
 thời gian ngắn ông mua một căn nhà tại đường Trần Cao Vân và cuới vợ. 
Rồi ông được làm việc tại Bộ Công Dân Vụ.
Một năm sau, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị 
bọn đâm thuê, chém mướn giết chết. Là một người cứng cỏi, Nhưng ông Dân 
đã rơi nuớc mắt, ông kêu lên:
“Thế là hết! Tổng Thống không còn nữa, thì sẽ không còn ai hiểu tôi ngoài Tổng Thống”.
Vài tháng sau ông tâm sự với người thân:
“Tôi chán nản trước nạn kiêu binh và kiêu tăng ngày càng lộng hành trên đất nuớc, chắc tôi sẽ xin xuất ngũ”.
Tôi không nhớ rõ ngày tháng, Nhưng sau đó
 ông đã xin xuất ngũ và cộng tác với cụ Vũ Hồng Khanh. Chức vụ cuối cùng
 VNQDĐ của ông là một trong bốn Phó chủ tịch Thành bộ Đà Nẵng.
Ngày 24-03-1975, trong lúc ông Trần Quốc Dân chuẩn bị đưa gia đình đi di tản, thì bất ngờ hai ông: Đại đức Thích Như Ký, Tổng thư ký Giáo hội Tăng già Quảng Nam-Đà Nẵng cùng Huỳnh Phổ, cư sĩ Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo quận 2, Đà Nẵng (cả
 hai đều là cố vấn của LLHG Thị bộ ĐN) dắt theo một đám “Thanh niên Phật
 tử” có vũ trang đến nơi (sau này tất cả trở thành công an VC). Hai 
người này vào nhà ông Dân, Thích Như Ký nói:
“Chúng tôi Ban lãnh đạo Lực luợng
 Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng, mời ông lên chùa tỉnh Giáo hội để cùng làm 
việc, ông hãy tin tưởng vào chúng tôi và ông sẽ có một chỗ đứng trong 
lòng lịch sử”.
Nói là “mời” Nhưng đám thanh niên Phật tử
 đứng sau lưng hai ông, tên nào cũng lăm lăm tay súng. Không còn cách 
nào khác, ông Dân đành phải theo chúng lên chùa.
Ông Dân đi rồi, gia đình biết ông sẽ gặp 
nguy, nên vợ ông dắt hai đứa con thơ của ông bà đến chùa Pháp Lâm tức 
chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng để xin gặp chồng; Nhưng 
đội An ninh Phật tử chặn ngay ở ngoài cổng không cho vào. Vợ ông Dân 
khóc lóc, van lạy thế nào cũng không được, nên đành dắt hai con trở về.
    Ngày 30-03-1975, khoảng 
10 giờ sáng, LLHG Phật giáo đưa ông Dân từ chùa Pháp Lâm đến nhà giam 
Kho Đạn ở số 15, đường Đào Duy Từ, Đà Nẵng. Lúc giải giao, chúng đã trói
 hai tay ông ra sau, còn tròng thêm một vòng thòng lọng lên cổ, cách 
trói này giống như chúng đã trói các vị quân cán chính Việt Nam Cộng 
Hòa, trong cuộc bạo loạn bàn Phật xuống đường, vào mùa hè 1966; khi áp 
giải các vị nói trên đến chùa Phổ Đà. Bởi cách trói này, nếu nạn nhân bỏ
 chạy, thì sợi dây sẽ tự thắt cổ lại mà chết. Như thế, vẫn chưa đủ, mà 
đội “An ninh Phật tử” còn cầm súng đi kèm hai bên. Thấy vậy, đồng bào Đà
 Nẵng đã gọi chúng là “Ủy ban Áp giải“.
   Ngày 03-04-1975, khoảng 
21 giờ tối, Nguyễn Chơn, tướng VC. Đến nhận ông Dân tại nhà giam Kho 
Đạn. Sáng hôm sau, người ta phát hiện xác chết của ông Dân đã chết, xác 
được bỏ vào Nhà Vĩnh Biệt của Quân Y Viện Duy Tân ĐN, trên thân thể của 
ông có nhiều vết đạn.
Chúng tôi xin nhắc lại. Năm 1962, ông Dân
 là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sao Vàng, thì Nguyễn Chơn là Trung đoàn
 phó. Sau khi ông Dân bỏ đơn vị trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia, thì 
Nguyễn Chơn đã thay thế ông Trần Quốc Dân làm Trung đoàn trưởng. Đến 
1975, Nguyễn Chơn lên tướng. Như vậy, cho chúng ta thấy, một mặt Phật 
giáo đã bắt ông Trần Quốc Dân đem giam trong chùa Pháp Lâm. Mặt khác ra 
lệnh cho Thích Minh Tuấn đem xe ra tận đèo Phú Gia để rước Sư đoàn Sao 
Vàng của Nguyễn Chơn (tướng VC), rồi sau đó giao ông Dân cho Nguyễn Chơn
 xử bắn, theo chỉ thị của VC một cách rõ ràng không thể chối cãi.
Sau khi ông Dân chết, bọn “An ninh Phật 
tử” đã hướng dẫn VC, xông vào nhà ông Trần Quốc Dân dùng bạo lực đuổi vợ
 con ông ra khỏi nhà, mà chúng nói là “Nhà của Diệm”.
Vợ ông Dân chỉ được ôm mấy bộ áo quần và dắt các con ông bà về nương tựa với gia đinh tại chợ Tân Lập, Đà Nẵng.
Những người đã chết dưới bàn tay tàn bạo của “Lực luợng An ninh Phật giáo Ấn Quang“:
Tối 29-03-1975, Đội “An 
ninh Phật giáo” đã bắn chết bảy người tại quận 3 Đà Nẵng. Trong số này 
chúng tôi biết mặt, biết tên bốn người, đó là các ông:
1- Hồ Hân, quê
 Quảng Ngãi, nhà ở An Thị, An Hải Bắc, nguyên Trưởng ban Thẩm vấn Ty 
Cảnh sát Quốc gia, thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Năm 1964, ông bị Phật giáo bắt
 đánh về tội “Dư đảng Cần Lao”.
2- Nguyễn Phận, nhà ở An Tân, An Hải Bắc, nhân viên ban 2 Chi khu quận 3, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, thuộc Khu đảng bộ Yên Bái.
3- Phạm Lý, quê
 Tứ Câu, Thanh Thủy, Điện Bàn, Quảng Nam, nhà ở An Cu 3, An Hải Đông, 
công nhân sở Mỹ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cả hai vị nói trên 
đều trực thuộc Trung ương Pháp định do cụ Vũ Hồng Khanh lãnh đạo.
4- Riêng ông Bùi Ngọc Cang, Phường
 trưởng Phường An Hải Bắc. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa ông là nhân viên phòng 
2, Thị đoàn Bảo An Đà Nẵng. Năm 1964, ông bị Phật giáo bắt đánh về tội 
“Dư đảng Cần Lao”.
Lúc “Lực luợng An Ninh Phật giáo 
đến nhà, vợ ông Cang ra mở cửa. Vừa thấy mặt ông Cang là một tên đã bắn 
xả vào người ông liền mấy phát. Ông Bùi Ngọc Cang gục chết ngay giữa nhà, trước sự kinh hoàng của vợ con; bà Cang ngất xỉu, các con ông gào thét lên kêu cứu, còn “Đội An Ninh Phật Giáo lạnh lùng bỏ đi ra!!!
Cùng bị bắn với bốn vị kể trên, 
còn có ba người nữa. Tôi nhớ một người tên Mua, một người tôi quên tên 
cả hai người này đều là người An Hải Đông, quận 3 Đà Nẵng, là Cán bộ 
Liên hiệp Nghiệp đoàn lao công, đảng viên Đảng Công Nông do Chủ tịch 
Trung ương Trần Quốc Bửu lãnh đạo; và một người khác là nhân viên Cảnh 
sát, người Quảng Trị (chúng tôi cũng quên tên) đã bị bắn chết ngay trước
 Trại Ngô Quyền, An Hải Bắc, quận 3. Sau khi chết được đồng bào chôn cất
 ngay tại chỗ. Cho đến trước ngày vượt biển chúng tôi vẫn còn thấy nấm 
mộ của người này tại đó, đồng bào vẫn thường đến thắp hương cho nấm mộ 
vô chủ này. Không biết bây giờ có dời đi nơi khác hay không?
Ngoài ra, vào buổi chiều 29-03-1975, khoảng
 19 giờ, vì không lên tầu di tản được, tôi trở về nhà, khi xe tôi chạy 
đến ngã ba Huế, bỗng thấy một đám đông vây quanh trước một căn nhà ở góc
 phía trái thuộc phuờng An Khê, quận 2, Đà Nẵng làm kẹt xe. Tôi phải 
dừng lại, trước mặt tôi là một lũ “An ninh Phật giáo” Đang đằng đằng sát
 khí trực chỉ vào một căn nhà khá khang trang, đang đóng cửa, bọn này la
 hét:
“Tất cả mọi người ở trong nhà phải đều ra ngoài hết, nếu không thì chúng tao sẽ đốt nhà”.
Sau một hồi lâu không thấy động tĩnh; tôi nhận thấy trên khuôn mặt của đồng bào ai cũng đều lo sợ. Có lẽ ở gần nhà nên họ biết về những người trong nhà này. Trong lúc đồng bào đang lo lắng, thì bỗng có hai người đàn ông khoảng chưa tới ba mươi tuổi đã mở cánh cửa ở bên hông trái của căn nhà bước ra. Nhưng thật bất ngờ là khi hai người này vừa bước xuống chưa hết bậc tam cấp; thì bọn “An Ninh Phật Tử” liền nổ súng bắn xả vào hai người này. Cả hai vị đều gục chết trên vũng máu, thân thể nằm vắt ngang nửa trên nửa dưới của bậc tam cấp nơi thềm nhà của họ. Thấy vậy, tôi mới hỏi thăm đồng bào ở đó và tôi được biết: hai vị đó là hai anh em ruột và đều là nhân viên Cảnh Sát.
Sau một hồi lâu không thấy động tĩnh; tôi nhận thấy trên khuôn mặt của đồng bào ai cũng đều lo sợ. Có lẽ ở gần nhà nên họ biết về những người trong nhà này. Trong lúc đồng bào đang lo lắng, thì bỗng có hai người đàn ông khoảng chưa tới ba mươi tuổi đã mở cánh cửa ở bên hông trái của căn nhà bước ra. Nhưng thật bất ngờ là khi hai người này vừa bước xuống chưa hết bậc tam cấp; thì bọn “An Ninh Phật Tử” liền nổ súng bắn xả vào hai người này. Cả hai vị đều gục chết trên vũng máu, thân thể nằm vắt ngang nửa trên nửa dưới của bậc tam cấp nơi thềm nhà của họ. Thấy vậy, tôi mới hỏi thăm đồng bào ở đó và tôi được biết: hai vị đó là hai anh em ruột và đều là nhân viên Cảnh Sát.
Trước cái chết của hai vị này, đồng bào 
đã khiếp đảm vội giải tán ngay, ai về nhà nấy, tôi cũng phải rời hiện 
trường lập tức. Nhưng cho đến bây giờ và mãi mãi, tôi vẫn không bao giờ 
quên được hình ảnh của hai vị cũng như căn nhà của họ, tôi vẫn tâm 
nguyện sẽ có một ngày được trở lại quê hương để tìm cho ra tên họ của 
những người đã chết một cách tức tuởi và oan uổng dưới bàn tay tàn ác 
của Phật giáo Ấn Quang; bởi tôi không muốn tên tuổi của họ sẽ bị đi vào 
quên lãng.
« Ủy ban lãnh đạo Lực luợng hòa hợp, hòa giải dân tộc thị bộ Đà Nẵng »:
Người đứng đầu cái Ủy ban nầy là La Thành Tỵ,
 một tên tàn ác đã từng ra tay sát hại đồng bào trong cuộc tấn công 
phường Thanh Bồ – Đức Lợi, làm Chủ tịch LLHHHG Thị bộ, trụ sở được đặt 
tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường Ông Ích Khiêm Đà Nẵng, nơi trụ trì của 
Thượng tọa Thích Quang Thể, Chánh Đại diện Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng.
Chúng tôi vẫn nhớ, bắt đầu từ ngày 
01/04/1975, sau khi đã có công ra tận vùng giặc đón VC vào thành phố, 
LLHHHG liên tiếp từng ngày cho xe chạy khắp đường phố dùng loa phóng 
thanh kêu gọi:
« Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp-Hòa
 giải Thị bộ Đà Nẵng. Yêu cầu tất cả ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái 
chính trị thuộc chế độ Sài Gòn, hãy mau mau tập trung về chùa Pháp Lâm, 
tức chùa tỉnh giáo hội giao nộp vũ khí và trình diện. »
Đối với Quân, cán, chính Việt Nam Cộng 
Hòa đều chưa biết số phận mình sẽ ra sao, khi nghe lời kêu gọi đó họ đã 
đến « chùa » để trình diện.
Một điều mà chắc nhiều người còn nhớ, là 
lúc chạy giặc đa số sĩ quan vứt bỏ súng, khi đến chùa trình diện không 
có súng đã bị La Thành Tỵ, một trong những tên sát thủ trong cuộc tấn 
công hai Phường Thanh Bồ – Đức Lợi, 24-8-1964. Lúc này là Chủ tịch 
LLHHHG thị bộ Đà Nẵng, cùng lũ lâu la trong cái thị bộ này, lớn tiếng la
 lối, nạt nộ đủ điều:
« Các anh phải giao nộp súng 
ngắn, vì sĩ quan phải có súng ngắn, các anh giữ súng lại để tìm cách 
chống phá cách mạng à? Không có súng ngắn chúng tôi không cấp giấy chứng
 nhận đâu”.
Vậy là các vị sĩ quan này phải về đi tìm 
súng, Nhưng súng còn đâu nữa mà tìm, bởi lúc hỗn loạn xảy ra, La Thành 
Tỵ đã ra lệnh cho thanh niên Phật tử phải đi thu nhặt hết đem về chất 
trước sân chùa. Nhưng có vị đã đi đến những hang cùng, ngõ hẻm tìm được 
súng, có vị tìm được cả chục khẩu súng như M.16, R.15… vác lên chùa. 
Trong số đó, tôi biết có một người là Thiếu Tá Đỗ Công Hào, Thuộc Tiểu 
đoàn 10, Chiến Tranh Chính Trị, cũng ôm một bó súng, ông yên tâm đem vào
 chùa; Nhưng không ngờ khi nộp súng ông lại càng bị La Thành Tỵ la hét 
càng to hơn nữa:
” Các anh có đem hàng trăm súng 
dài cũng không được, vì Sĩ quan thì phải giao nộp súng ngắn, các anh 
phải nộp súng ngay, không thì đừng có trách”.
Đến nuớc này, thì các vị không có “súng 
ngắn” chỉ còn có một cách là về nhà đem tiền lên chùa để đưa cho “Lực 
Luợng An Ninh phật Giáo” đám này hễ ai có tiền thì chúng lấy những cây 
“súng ngắn” trong cái đống súng ở trước sân chùa trao cho, để nộp và để 
đổi lấy cái “Giấy chứng nhận trình diện” của “Thị Bộ Hòa Hợp-Hòa Giải”.
 Thiếu tá Đỗ Công Hào cũng phải đem tiền mua súng. Sau đó, ông đã phải 
vào nhà tù “cải tạo” T.154, đến gần mười năm sau khi đã bị què một chân 
mới được ra tù. Và bây giờ, dù đã trải qua những năm dài bị hành hạ, đọa
 đày, nhưng Thiếu tá Đỗ Công Hào vẫn còn giữ nguyên được cái cây… súng 
ngắn. Chẳng biết bây giờ bọn Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo có còn muốn đòi 
Thiếu tá Đỗ Công Hào phải trình ra cái cây… súng ngắn nữa không???
Việt Cộng trả công cho “Lực luợng Hòa hợp Hòa giải Phật giáo Ấn Quang“:
Trở lại với cái gọi là LLHHHG, sau khi 
Quân, cán, chính VNCH Đà giao nộp vũ khí, thì trước sân chùa một đống 
súng cao như núi; thì Lực luợng Hòa hợp – Hòa giải đã đến Tòa Thị Chính 
mời “Ủy ban Quân quản” đến nhận súng. UBQQ cử Hoàng văn Lai, ủy viên an 
ninh (sau Lai là Đại tá Trưởng ty công an QN-ĐN) đến chùa Pháp Lâm, Lai 
đứng ở sân « chùa » dằn từng tiếng:
« Các anh hãy trả lời: Cách mạng 
chiến thắng hay Phật giáo chiến thắng? Hòa giải là cái gì? Mỹ, ngụy bỏ 
chạy, chúng tôi tiếp thu chớ có có ai đánh đâu mà hòa giải, còn súng, 
chúng tôi không cần, cho các anh đấy!!!”.
Bấy giờ đến luợt « Ban lãnh đạo hòa giải »
 lạy Hoàng văn Lai để y chở đống súng đi, vì để đống súng nằm hoài ở sân
 « chùa » thì … không tiện.
Sau đó « Ủy ban quân quản » ra lệnh như sau:
“- Sĩ quan trình diện tại số 03 Duy Tân.
– Ngụy quyền trình diện tại số 12 Bạch Đằng.
– Đảng phái chính trị trình diện tập thể tại số 09 Gia Long”.
Có người nghĩ rằng đã có giấy chứng nhận của « Lực lượng Hòa hợp, Hòa giải Phật giáo »
 nên không đi trình diện nữa. Nhưng nhiều vị đã bị bắt vì không có giấy 
chứng nhận của “Ủy ban quân quản”, có người xuất trình giấy chứng nhận 
của « LLHHHG » thì bọn an ninh nói:
« Giấy chứng nhận của hòa giải 
hãy bỏ vào sọt rác vì không có giá trị, chỉ có giấy chứng nhận của ủy 
ban quân quản, có chữ ký của ông Hoàng văn Lai mới có giá trị”.
Cuối cùng Quân, Cán, Chính VNCH ở thành phố phải đi trình diện hai lần, Nhưng may là lần sau không bị đòi nộp súng ngắn nữa!!!
Bây giờ đến lượt « cách mạng thưởng công » cho « Lực luợng hòa giải:
Qua sự thanh lọc, một số đông bị rớt, riêng La thành Tỵ được tiếp tục làm việc trong « Mặt trận tổ quốc » hiện nay La Thành Tỵ là « Trưởng ban hướng dẫn gia đình Phật tử Quảng Nam – Đà Nẵng ».
” Chính quyền Phật Giáo“:
Một điều, hơn ai hết chính LLHG Phật giáo chắc khó quên, ấy là trong thời gian hơn một tháng từ 20/03/1975,
 LLHG đã nổi lên cướp chính quyền phường, khóm xã, thôn, bởi chính quyền
 cũ có người đã di tản, còn những người kẹt lại vì thấy những bộ mặt 
đằng đằng sát khí của những « ông » hòa giải nên chẳng ai dám nói gì. Họ
 cũng tự xưng là Phường trưởng, Xã trưởng, Thôn, Khóm trưởng, đã làm mưa
 làm gió, bắt giết người, lập tòa án nhân dân đấu tố nhiều người đến 
29/03/1975, VC vào thành phố rồi, chúng cũng không hề nói gì mà còn vui 
vẻ bắt tay « các ông » hòa giải gọi là « đồng chí ». Nhưng sau ngày 30/04/1975,
 Việt cộng mới yêu cầu các khuôn hội bàn giao chính quyền cho chúng. 
Điều này đã làm « Hòa giải Phật giáo » bị mất mặt trước dân chúng, nên «
 Chính quyền Hòa giải » nhất định không chịu bàn giao, vì đã nắm quyền 
hơn một tháng rồi, giết người chẳng ít, bắt giam cũng nhiều ( như tôi đã
 viết ở bài trước). Nên chính quyền hòa giải đòi VC phải hợp thức hóa 
cho họ trở thành những cán bộ lãnh đạo phuờng, khóm, xã, thôn vì đã có 
công lao đưa xe đi đón bộ đội Bắc Việt vào thành phố.
     Cuối cùng Việt cộng tổ chức một cuộc mít-tinh tại Đài phát thanh Đà Nẵng, trong buổi mít tinh ban tổ chức Đà giới thiệu tên Trần Thận, Thường vụ tỉnh ủy Quảng-Đà lên phát biểu như sau:
« Sở dĩ có cuộc mét-tinh hôm nay 
là do sự đòi hỏi của Phật giáo. Tôi nhấn mạnh là Phật giáo chớ không có 
hòa hợp, hòa giải chi hết á. Vì cái chiêu bài hòa hợp, hòa giải là chỉ 
do Phật giáo tổ chức ra để lừa bịp với chế độ Sài Gòn mà thôi. Chúng tôi
 công nhận Phật giáo Ấn Quang đã có công đóng góp với cách mạng đánh đổ 
Mỹ- ngụy. Nhưng, đó là nghĩa vụ công dân chớ không vì thế mà Phật giáo 
đòi cầm quyền. Hiện nay, còn có một số phuờng, khóm, xã, thôn thuộc các 
khuôn hội còn nắm giữ không chịu bàn giao cho ủy ban nhân dân các địa 
phương. Phật giáo nên biết, ngày xưa ông Lý Vạn Hạnh là cha ruột ông Lý 
Công Uẩn nên Phật giáo muốn làm gì thì làm, còn hiện nay ông Đôn Hậu 
không phải là cha của đồng chí Lê Duẩn, và chính quyền cách mạng chứ 
không phải là triều Lý. Vậy chúng tôi yêu cầu Phật giáo phải khẩn trương
 bàn giao gấp, nếu chậm trễ chúng tôi sẽ có biện pháp… ».
    Nói đến đây, y nổi nóng vung tay hét:
« Nay đất nước đã có độc lập tự 
do rồi mà không lo tu thân, tăng gia sản xuất để góp phần xây dựng đất 
nuớc, mà cứ đòi cầm quyền! Phật giáo lấy tư cách gì để đòi cầm quyền? Ai
 cho cầm quyền? Phật giáo chỉ có cầm …cầm … cầm… »
Bỗng nhiên có tiếng cười nổi lên, nhiều 
bà cuời lớn quá khiến tên Thận phải khựng lại, rồi không biết phải nói 
tiếp những gì nên y nói đại:
« O … cầm … cầm … cầm …cái gì cũng được nhưng không được cầm quyền”.
  Thích Đôn Hậu bắt buộc đồng bào phải đi diễn hành mừng sinh nhật Hồ Chí Minh:
Ngày 18/05/1975, Thích Đôn Hậu chỉ thị 
tỉnh giáo hội Quảng Nam – Đà Nẵng và Thị bộ Hòa giải tổ chức sinh nhật 
Hồ Chí Minh tại chùa Pháp Lâm. Trước khi tổ chức sinh nhật, các khuôn 
hội tại các quận lân cận và thành phố Đà Nẵng Đà ra lệnh cho đồng bào 
phải tập trung về « chùa » Phổ Đà « để bắt đầu cuộc diễn hành chào mừng chiến thắng và dự sinh nhật của bác Hồ vị cha già của dân tộc ». “Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải ”
 đã bắt đồng bào ở các quận như: Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An, Hòa Vang… 
phải đi bộ, mọi người phải tay cầm đèn gió để đem xuống thì thắp sáng 
lên cho nó ra vẻ « phấn khởi hồ hởi » và gói cơm đem theo để ăn dọc 
đường vì có nơi phải đi bộ một ngày một đêm mới tới Đà Nẵng. Trước khi 
đi, các khuôn hội đã tập dượt cho đồng bào hô khẩu hiệu như sau: Khi 
những « ông » hòa giải tay cầm loa phóng thanh, mồm hô:
« Hoan hô bộ đội giải phóng miền nam anh hùng.»
thì đồng bào phải hô lớn « hoan hô …hoan hô… » còn khi mấy « ông » hô:
« Đả Đảo đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai bán nuớc”, thì đồng bào phải hô « đả đảo…đả đảo… »
« Đả Đảo đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai bán nuớc”, thì đồng bào phải hô « đả đảo…đả đảo… »
Nhưng sau một đêm ngày đi bộ vì mệt và buồn ngủ, nên đồng bào chẳng còn nhớ những gì khác cả, mà chỉ còn nhớ bốn tiếng « hoan hô » và « đả đảo » mà thôi. Tôi vẫn nhớ như in vào đêm ấy đã hơn một giờ sáng ngày 19/05/1975.
 Lúc đó tôi đang ngủ, thì bỗng nghe tiếng chân người đi, tiếng ồn ào, 
tiếng loa phóng thanh cùng với tiếng hô « hoan hô…đả đảo… » Bây giờ mỗi 
lần nhớ lại chuyện đêm ấy, nếu có ai thì tôi kể lại để cùng cười, còn 
nếu chỉ mình tôi, thì tôi … cười một mình.
Đêm ấy, khi đoàn người đã bị các «ông» 
hòa giải hành hạ đang đi qua nhà, tôi đã vừa cảm thương đồng bào vừa 
không nén được tiếng cuời, khi nghe mấy «ông» hòa giải tay cầm loa phóng
 thanh mồm la ơi ới:
«Bà con ơi! ai rớt gói cơm?» 
thì có tiếng của đồng bào đáp trả:
« hoan hô… hoan hô… »
Nghe vậy mấy « ông » hòa giải lại la lớn:
« Bà con ơi! gói cơm ai rớt? »
Đồng bào lại hô
« đả đảo … đả đảo …».
Cứ tiếp tục như vậy, một hồi lâu, đồng bào cứ mắt nhắm, mắt mở cũng chỉ biết có
« hoan hô »
với
« đả đảo » cái… gói cơm. 
Cuối cùng, các «ông Hòa giải» tức quá mới đi tới gần từng nhóm người, tay đập mạnh vào người họ mồm hét:
«Gần sáng rồi, tỉnh táo đi, nghe 
chúng tôi nói đây nè ai…làm…rớt…gói…cơm…thì nhận lại, chứ nghe cái gì 
đâu mà cứ hoan hô với đả đảo hoài…vậy hả? »
Lúc đó đồng bào mới biết là có « sự cố ».
Nên biết là lúc đó, đồng bào rất sợ Hòa 
giải Phật giáo, các khuôn hội buộc mỗi gia đình ít nhất phải có một 
người phải cầm đèn gió đi diễn hành. Tại thành phố Đà 
Nẵng, để cho nó có « hệ thống » trước khi diễn hành đến « chùa » Pháp 
lâm, các khuôn hội dùng loa phóng thanh kêu gọi:
” Yêu cầu tất cả đồng bào hãy tập
 trung về tại « chùa » Phổ Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh ĐN, tức 
Phật học viện Trung phần, để bắt đầu cuộc diễn hành trên khắp thành phố 
suốt đêm để mừng cách mạng chiến thắng, cho đến sáng ngày 19-05, trước 
khi đến chùa Pháp Lâm tại số 500, đường Ông Ích Khiêm để mừng sinh nhật 
Hồ Chủ tịch vĩ đại”
Trở lại với cuộc diễn hành hay đúng hơn 
là Hành diễn. Sau khi đã thấy những sự kiện kể trên, tôi nghĩ chờ Trời 
sáng sẽ xuống chùa Pháp Lâm xem thử mọi việc ra sao.
Khi đến đến « chùa » Pháp Lâm, tôi cùng 
vào với đồng bào diễn hành. Chúng tôi đã chứng kiến « Thượng tọa » Thích
 Đôn Hậu ngỏ lời nói:
“Yêu cầu đồng bào từ nay hãy lập 
tại nhà một bàn thờ thật trang trọng, phải có ảnh bác Hồ kính yêu để thờ
 vị cha già của dân tộc, ảnh đang có tại các chùa, đồng bào hãy đến để 
mua đem về mà thờ ».
Tiếp theo Thích Đôn Hậu (dân
 Đà Nẵng thường gọi là Thích Đoản Hậu hoặc Thích Đâm Hậu), giới thiệu 
một « cán bộ cách mạng lên nói chuyện với đồng bào » khi người này lên 
nói chuyện đã tự giới thiệu tên là Hoàng Châu Ký, Giám đốc Sở Thông tin văn hóa khu trung, Trung bộ.
Hoàng Châu Ký đã ngỏ lời khen ngợi có đoạn như sau:
« … Quý Thượng tọa, đại đức và 
quý vị thuộc lực luợng hòa hợp hòa giải, là những người đã có công với 
cách mạng, tham gia đánh đổ Mỹ- ngụy, thật là đáng ngợi khen. Trước đây,
 quý vị nói là bị Mỹ-Ngụy áp bức, kềm kẹp không có tự do, nay cách mạng 
đã giải phóng, không còn ai bị áp bức nữa. Từ nay, quý vị tu sĩ đều được
 tự do ở lại chùa tu hành. Ngoài ra, cách mạng sẽ giúp đỡ bằng cách tạo 
điều kiện cho có đất đai để quý vị được tự do làm chủ, tự do lao động 
sản xuất, để góp phần xây dựng đất nước, và để được vinh dự là không còn
 ăn bám vào thiên hạ nữa.
Còn đối với những người không 
phải tu hành, tôi biết ở đây có nhiều người có bằng cấp cao như tiến sĩ,
 bác sĩ, giáo sư, kỹ sư … Các anh sẽ được trọng dụng trở lại, làm việc 
theo nghành nghề chuyên môn, bác sĩ trở lại bệnh viện, giáo sư trở lại 
trường học … Các anh sẽ được bình đẳng như những giáo sư, bác sĩ, kỹ sư 
cách mạng miền Bắc. Nghĩa là, hàng tháng họ được bao nhiêu ký rau muống,
 bao nhiêu mì chính (bột ngọt)… thì các anh cũng được lãnh bấy nhiêu. 
Ngoài ra, muốn cải thiện, nếu ở thành phố không có đất, chúng tôi sẽ 
giúp đỡ cho các anh có điều kiện để tự do nuôi heo, tự do nuôi gà, tự do
 nuôi vịt, tự do …tự do… »
Hoàng Châu Ký còn nói thêm nhiều thứ tự 
do nữa, Nhưng sao tôi thấy trên từng khuôn mặt của những « vị trí thức »
 này bỗng trở nên nhợt nhạt khi biết mình đã có đầy đủ những thứ … tự 
do!!!
Trong lúc y còn nói chuyện, Nhưng chúng 
tôi không thể đứng nhìn những đồng bào tội nghiệp của mình, mà chúng tôi
 biết chắc chắn là họ phải nằm đường, ngủ chợ, lê lết một ngày, một đêm 
nữa mới trở về đến nhà của họ, nên chúng tôi phải ra về.
“Trại Cải Tạo T.154“:
Đến đây, tôi xin nói qua về trại cải tạo 
T.154, là hậu thân của trại cải tạo Đá Trắng. Nhân đây, vì tôi vốn là 
dân gốc tại làng Thạnh Bình, Tiên Phước, Quảng Nam; từ nhà tôi đến nhà 
cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ cần đi bộ, tôi biết rất rõ về trại này, nơi Bác 
ruột của tôi đã bỏ mình tại trại vào năm 1964, nên tôi phải nói rõ về 
cái tên T.154. Bởi khi quận Tiên Phước mất vào ngày 13/03/1975, thì VC 
đã cấp tốc khởi công phá bỏ trại Đá Trắng vốn ở dưới hầm, để thành lập 
trại tù mới lớn hơn, từ lúc đầu VC đã bắt thanh niên quận Tiên Phước làm
 công việc xây dựng bằng nhà tranh vách đất, đến ngày 15/04/1975,
 Việt cộng cho « khánh thành » và trại Đá Trắng chính thức đổi tên thành
 “Trại cải tạo T.154″, để rồi các vị ai đã vào đấy, thì ít có vị nào ra 
trại trước muời năm, có vị đã bỏ mình tại trại vì bị hành hạ đến bệnh 
tật không được điều trị, có vị bị xử bắn, bị bỏ đói chết trong nhà biệt 
giam.
Sau đó, khi đưa tất cả các vị quân cán 
chính Việt Nam Cộng Hòa đã trình diện tại « chùa » Pháp Lâm vào đây, VC 
lại bắt các vị tù trong trại tự xây nhà tù mới, mái lợp ngói, nền lát 
gạch. Trại chính là Trại 1, bên nam gồm có 12 (mười 
hai) nhà, mỗi nhà có bốn phòng, mỗi phòng có hai dãy sạp gỗ dài song 
song và một sạp chiếc, mỗi sạp chứa được trên dưới 20 ( hai mươi) người.
 Tất cả các phòng, các cánh cửa đều có gài một thanh sắt dài có gắn khóa
 sắt, để mỗi tối sau một ngày lao động, mọi người tù phải vào phòng để 
một công an gọi là « Cán bộ trực trại » điểm danh xong rồi khóa
 cửa lại. Nhưng chưa đủ mà còn có một nhà Biệt Giam, trong nhà nầy có 
những thanh sắt gài hai chiếc cùm sắt xuyên qua Tường gạch kiên cố, để 
cùm hai chân người tù, phòng chỉ bốn mét vuông, không có cửa sổ, chỉ có 
một lỗ thông hơi hình tròn đường kính khoảng 08 cm (tám phân), bên ngoài
 là cánh cửa sắt có gài một thanh sắt có khóa sắt. Trong trại còn có nhà
 cấp duỡng ( nhà bếp) một trạm xá.
Ngoài ra, quanh trại VC còn xây thêm các 
phân trại như các trại: Trại Thôn Năm, Thôn Tư, Na Son, Nà Thao, Lò 
gạch, Nhà chăn nuôi, Nhà máy ly tâm sản xuất đường (chỉ phân phối cho 
công an, còn tù cải tạo thì chỉ được nhìn mà thôi). Đầu năm 1979,
 vì đánh nhau với Tàu nên VC chuẩn bị đưa một số vị tù ra Bắc, đã phải 
ngưng lại, thay vào đó VC đã lập thêm nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ). Rồi
 thay vì đưa ra Bắc; vào đêm 03-05-1979, các vị này đã 
bị trói dính chặt vào nhau. Sau đó, các vị đã bị công an vũ trang dao kề
 cổ, súng kề lưng, đưa vào nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ) trong một đêm 
khuya tối Trời. Trong số này có bốn vị tu sĩ đó là quý ngài:
– Linh mục Đặng Đình Canh, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Thanh Bồ, Đà Nẵng,– Linh mục Vũ Dần, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Phú Thượng, Đà Nẵng,
– Linh mục Nguyễn Đình Ánh.
Riêng Linh Mục Tống Kiên Hùng sau khi ra tù ngài trở về giáo xứ Tam Tòa,
Nhưng công an QN-ĐN đã trục xuất ngài vào
 miền Nam, rồi ngài sang Hoa Kỳ, hiện nay ngài đã vào dòng tu kín tại 
Hoa Kỳ, và Mục sư Dương Đình Nguyện, hiện cũng đã tiếp tục hầu việc Chúa
 ở Hoa Kỳ.
Ngoài các trại tù nam, VC cũng lập thêm 
phân Trại Nữ gồm có năm nhà, có nhà cấp dưỡng, trạm xá riêng, các phòng 
cũng kiên cố như trại nam. Nhưng mỗi khi nữ tù « vi phạm nội quy » thì 
công an trại nữ lại “Lập biên bản” để đưa vào cùm trong nhà biệt giam 
của trại nam, vì trại nữ không có nhà cùm biệt giam. Ví thế, nữ tù vì 
mắc cỡ nên rất sợ bị vào nhà cùm ở bên trại nam; bởi bất kể một nữ tù 
nào chỉ cần có một giờ bị ôm áo quần đi vào nhà cùm ở trại nam, là cả 
hai trại nam – nữ tù đều biết tất cả.
Hai trại nam, nữ cách nhau một giòng suối
 nhỏ, « tuy xa mà gần, tuy gần mà xa » chung một hội trường để hai trại 
nam, nữ cùng học tập chính trị, hoặc họp toàn trại mỗi khi trong trại có
 nhiều người « vi phạm nội quy » hoặc xem văn nghệ vào dịp Tết, hay ngày
 2/09, » nghệ sĩ » là các anh chị em đa số là các anh chị em thuộc Chiến
 Tranh Chính Trị cũ.
Nói đến nhà tù này, thật là kinh hoàng, 
khủng khiếp!!! Vì là nhà tù lao động chuyên về nông nghiệp, nên cả nam 
lẫn nữ tù đều phải làm những công việc vô cùng nặng nhọc. Hàng ngày, nữ 
tù chúng tôi thường đi làm chung với quý vị nhà 08 do Trung tá Nguyễn 
Văn Chuớc « Tự quản » (nhà trưởng) quý vị này đã từng qua nhà biệt giam 
02-79 (Đồng Mộ) và nhà 10 do Thiếu tá Trương Quang Dõng làm nhà trưởng, 
ngày nào hai nhà này cũng thay phiên lao động bên nữ tù. Các anh đã thay
 trâu bò cày, bừa cho nữ cấy, gặt. Với chỉ tiêu chung, ba người một sào,
 bắt buộc phải đạt trong ngày. Ngoài ra phải leo lên đồi cao cuốc đất 
trồng sắn, mỗi ngày với chỉ tiêu vừa cuốc vừa trồng phải « đạt » 500 cây
 hom sắn, hay cuốc đất trồng mía, tỉa đậu, trồng khoai, lên rừng nam đốn
 củi, nữ vác xuống chất thành mét khối, cũng phải “đạt chỉ tiêu”. Nói 
tóm lại làm việc gì cũng phải « đạt chỉ tiêu » hết.
Nhưng không phải « đạt chỉ tiêu » rồi mà 
tối về phòng được ngủ sớm, mà tất cả chúng tôi, sau giờ ăn tối còn phải 
«làm tranh thủ» hái đậu phụng (lạc) cũng «chỉ tiêu» cho ba người đầy một
 thúng mới được về phòng, đặt lưng xuống chưa được bao lâu thì 06 giờ 
sáng phải thức dậy để bắt đầu một ngày lao động khác. Có khi vừa ăn tối 
xong, phải «tranh thủ» làm cỏ mía… Thôi thì đủ thứ «tranh thủ» không làm
 sao kể hết.
Chúng tôi vẫn nhớ, có những lần suốt ngày
 dầm mình dưới sình, lầy, tới ngực, tới bụng làm mồi cho đỉa; Nhưng vẫn 
“không đạt chỉ tiêu”. Vì vậy, đến chiều về trại, chúng tôi đã bị phạt, 
bằng cách không cho tắm rửa. Những lần như thế, chúng tôi cứ khóc như 
mưa, chẳng làm sao nuốt nổi chén sắn độn cơm, cũng không sao ngủ được vì
 trên người còn dây dính những bùn lầy, hôi hám!!!
Chúng tôi cũng không bao giờ quên những 
năm tháng lao động bên các vị Quân, cán, chính VNCH, thuộc nhà 08 và nhà
 10. Tôi vẫn nhớ mãi những ánh mắt đầy thương cảm và lo lắng của các 
anh, khi nhìn chúng tôi với những tấm thân yếu đuối, mà các anh chỉ nhìn
 thấy từ bụng, từ ngực nổi trên sình lầy, trong những ngày đông buốt 
giá, đến những ngày hạ nắng như thiêu đốt. Đôi chân của chúng tôi lúc 
nào cũng phải lần bước theo những cây đà, do chính các anh đốn từ trên 
rừng đem bỏ xuống ruộng. Các anh luôn luôn lưu ý đến chúng tôi, để khi 
nào nữ tù có ai lỡ trượt chân khỏi cây đà, thì các anh kịp thời nối 
cuốc, nối tay, kéo chúng tôi lên. Vì thế, có nhiều người rơi xuống 
ruộng, nhưng không hề có một ai bị chết vùi thân dưới sình lầy cả.
Nhưng với tôi, mặc dù bị tù đày. Tôi vẫn 
thấy mình có cái « may mắn » là « được » chứng kiến những trận đòn thù 
dã man, tàn bạo nhất mà công an trại đã giáng trên những tấm thân gầy 
yếu, trơ xương của nhiều vị tù, nhưng vì là một bài viết có hạn, nên tôi
 chỉ nói đến những trường hợp như sau đây:
– Thiếu tá Hồ Minh, ông 
đã bị « kỷ luật » cùm tay, chân, miệng, và ở phòng biệt giam. Chẳng 
những thế, mà ông còn bị công an trại dùng những khúc củi đánh đập nhiều
 lần, đến nỗi mỗi lần ông bị đánh, tù nhân chỉ nghe tiếng hét, tiếng rú 
của ông chứ không hề nghe tiếng ông nói thành lời. Một lần, tù nhân nghe
 tiếng mở cửa của thanh sắt phòng biệt giam. Họ thấy ông Hồ Minh bị hai 
tên công an vũ trang lôi ra khỏi phòng, rồi dùng những khúc củi đánh tới
 tấp lên người ông. Đau quá, ông bỏ chạy quanh khu biệt giam, lúc ấy, 
nhiều người mới nhìn thấy chiếc cùm đã không còn trên miệng của ông nữa,
 Nhưng ông không còn hét thành lời, mà chỉ có tiếng rú vô cùng man dại, 
đôi mắt vô hồn, nét mặt thất thần, có lẽ ông đã mất trí, cũng có thể vì 
chiếc cùm lâu ngày trên miệng đã làm ông không còn nói được nữa. Nhưng 
bọn công an vẫn đánh vì nói ông giả câm, chúng cứ tiếp tục đánh, buộc 
ông phải nói. Khi ông ngã sấp xuống mặt đất thì chúng không đánh bằng 
những khúc củi nữa, mà chúng thẳng chân giày đạp lên đầu, lên lưng ông, 
cho đến lúc ông nằm bất động, chúng mới cho « trật tự » trại khiêng 
xuống trạm xá trại 1. Nhưng đã quá trễ, vì khi vào trạm xá, thì thân xác
 ông đã lạnh ngắt tự bao giờ. Mọi người mới hay rằng bọn công an trại đã
 đạp lên cái xác chết của ông.
– Đại úy Nguyễn Phuợng, bị
 cùm bỏ đói cho đến chết. Khi chết rồi, mà đôi chân của ông vẫn còn 
trong đôi cùm sắt treo trên tường, thân thể quắt queo trên nền gạch lạnh
 lẽo của phòng biệt giam tăm tối!!!
– Thiếu tá Nguyễn Xuân Giáo, cựu
 Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia Quảng Nam (thời Đệ Nhất Cộng Hòa). Trước 
khi chết, ông đã bị hành hạ đến không còn nhìn ra được là con người nữa.
 Ngày ông chết trong nhà biệt giam, khi đưa ra ngoài, không biết là vô 
tình hay hữu ý, mà bọn công an đã cho người con trai ruột của ông cùng 
đồng tù là anh Nguyễn Xuân Đức khiêng xác đi chôn, mà vẫn không biết đó 
là cha ruột của mình. Cho đến khi huyệt mộ đã lấp đất xong, tên công an 
trại ra lệnh cho « trật tự » trại mang tấm bảng gỗ đến và viết tên Nguyễn Xuân Giáo, đem
 cắm dưới chân mộ. Lúc ấy, anh Đức mới kinh hoàng, chết điếng ngã lăn 
xuống đất, ôm lấy nấm mộ của đấng sinh thành vừa lạy vừa kêu Trời. Nhưng
 Trời thì ở trên cao và xa quá, còn công an thì ở gần, nên chúng ra lệnh
 cho « trật tự » trại vực anh dậy và lôi về phòng. Trước cảnh Trời sầu, 
đất thảm ấy, tất cả tù nhân chỉ biết rơi lệ vì cảm thương và đau xót!!!
– Chúng tôi cũng đã chứng kiến tại “Đồng Cừ”, hôm ấy là ngày cấy lúa, bọn công an bảo Trung tá Không quân, anh Nguyễn Văn Đức nấu
 ăn, đến khi dọn cơm ra cho chúng, bỗng chúng nói anh rửa rau muống 
không sạch, là muốn đầu độc chúng, rồi mấy tên công an vũ trang đã dùng 
báng súng, dùng giày, đánh, đạp vào người anh đến ngã ngụy xuống mặt đất
 trước mặt Mục sư Dương Đình Nguyện và Giáo sư Đồng Sĩ Ninh, là hai vị 
tù chịu trách nhiệm đắp nước ruộng và đồi sắn tại “Đồng Cừ”, cùng đông 
đảo tù cải tạo. Chúng tôi hết sức kinh hoàng và vô cùng đau đớn, nhưng 
không biết phải làm gì hơn là cúi mặt để dấu đi những dòng nuớt mắt cứ 
trào tuôn từ đáy lòng thương cảm, và cũng từ nỗi uất hận. Bởi, anh Đức 
đã lớn tuổi, mắt kém nhưng không có kính, nếu anh có rửa rau không được 
sạch thì đó không phải là lỗi của anh. Tại sao chúng không bảo những 
người tù khác mắt còn nhìn rõ hơn để nấu ăn cho chúng. Vả lại, chúng 
biết rõ là anh Nguyễn Văn Đức không có ý đầu độc chúng, Nhưng chúng muốn
 đánh anh vì lòng thù hận. Nên biết, bọn công an luôn luôn tìm một sơ hở
 nhỏ nào đó của tù cải tạo để có cớ mà đánh, đập, cùm kẹp để hành hạ trả
 thù mà thôi.
– Trung tá Nguyễn Tối Lạc, quận
 trưởng quận Đức Dục, người từng bị cùm cả tay, chân, có khi bị cùm cả 
miệng. Trước khi bị cùm miệng, ông đã xin Linh mục Vũ Dần, Linh Mục Đặng
 Đình Canh, Linh Mục Nguyễn Đình Ánh, Linh Mục Tống Kiên Hùng, truyền 
dạy Kinh Thánh cho ông, nên mỗi lần bị cùm miệng, nhưng còn hai tai nên 
qua cái lỗ thông hơi của phòng biệt giam, ông vẫn học thuộc hai câu Kinh
 Thánh mỗi ngày. Và nhiệm mầu thay, ông đã thoát chết. Bây giờ ông đã 
sang Hoa Kỳ theo diện tù cải tạo.
Người ta thường bảo khi cùng đường, sắp 
chết mới thấy Trời. Quả đúng như vậy, khi vào các nhà tù của Việt Cộng 
là đi vào tử lộ, và chính ở nơi ấy con người mới biết đến Đấng Toàn 
Năng.
– Ngoài ra, còn có nhiều vị bị xử bắn tại trại như Đại tá Nguyễn Văn Bình … Đặc biệt là Kỹ sư Trung úy Trần Quang Trân đã bị xử bắn vì
 tổ chức giải thoát tất cả tù nhân. Nên biết, ông Trần Quang Trân là một
 Kỹ sư điện tử, từng được tu nghiệp tại Nhật và Hoa Kỳ, ông được công an
 trại giao cho tất cả công việc bảo quản điện, đài trong trại, được tự 
do về thành phố Đà Nẵng mua phụ tùng các loại máy móc cho trại, ông cũng
 là một tay trống của đội văn nghệ trại, Nhưng ông không thể ung dung để
 huởng những ưu đãi của Việt cộng, không thể nhìn những người đồng cảnh 
ngộ bị đọa đày. Nên ông phải hành động, để rồi ông phải chịu chết 
thảm!!!
– Ngày ông Trần Quang Trân bị xử bắn, một
 buổi chiều khoảng 06 h 30 ngày 27/05/1982, khi cả hai trại nam, nữ đã 
ăn « cơm » xong. Trại nam đã điểm danh khóa cửa, nhưng trại nữ chưa điểm
 danh. Vì thế, chúng tôi còn rủ nhau đi quanh sân trại để « tâm sự ». 
Bỗng nhiên, chúng tôi thấy một tiểu đội công an vũ trang xuất hiện, 
chúng kềm ông Trần Quang Trân ở giữa và dắt theo bốn nam « trật tự » 
khiêng một chiếc quan tài, tất cả đang đi về hướng Hố Ông Hức, là nơi 
dành để chôn tù cải tạo. Riêng tôi, là thợ cắt, may được Âu-Việt phục, 
nên thỉnh thoảng công an trại bảo đi lấy số đo ở gia đình chúng để vào 
may trong trại nam, vì trại nam có bốn máy may, trại nữ không có, máy 
may chỉ dành để may áo quần cho công an, còn tù phải tự vá áo quần rách 
bằng những sợi nylon, tách ra từ bao cát mà ngày xưa thường dùng để làm 
hầm tránh đạn. Mỗi lần một « cán bộ » nào muốn nhờ tôi cắt, may, thì 
chính « cán bộ » ấy phải đích thân ra trại nữ xin phép « cán bộ trực 
trại » để nhận và cùng đi với tôi đến nhà, sau khi đo, đến ngày tôi vào 
trại nam để may công an cũng phải đi kèm, may xong, lại dắt tôi về trả 
cho « cán bộ trực trại ».
    Vì vậy, lúc ấy tôi đang từ nhà của vợ 
chồng Phó giám thị Nguyễn Văn Bá và vợ là Nguyễn Thị Thanh Yên người Kỳ 
Hà, quận Lý Tín, Quảng Tín. Yên là « cán bộ y tế » Thời gian này Nguyễn 
Văn Bá đã lên Phân trại Thôn 05 để kiêm luôn chức Trưởng trại Thôn 05. 
Nhưng không hiểu vì quên giờ hành quyết ông Trần Quang Trân, hay vì tôi 
đo áo quần cho cả gia đình nên bị chậm trễ giờ giấc. Nhà của vợ chồng 
tên Bá ở gần Hố ông Hức. Trên đường về trại có « cán bộ » Yên đi kèm, 
tôi đã nhìn thấy ông Trần Quang Trân bị bịt mắt và cùm miệng, vì sợ ông 
Trân có thể có lời nói bất lợi, hoặc hô khẩu hiệu, ngay như Trung tá 
Nguyễn Tối Lạc, khi bị kỷ luật cũng phải bị cùm miệng, bọn công an trong
 trại không bao giờ cho tù nói những lời mình muốn nói.. Ông Trần Quang 
Trân bị đưa đến Hố ông Hức.Vừa thấy tôi, mấy tên công an hét lớn, bảo 
tôi nhanh chân về trại, « cán bộ » Yên bảo tôi chạy ngay về trại, không 
được nhìn cái gì cả, còn y thị cũng chạy biến vào đám mía của nhà «Phó 
giám thị » Nguyễn Văn Tài và vợ là Trần thị Lệ cán bộ phụ trách hồ sơ tù
 cải tạo. Tôi lén nhìn ông Trân rồi cúi đầu đi thẳng. Khi về trại, tôi 
thấy mọi nữ tù đều khóc, vì họ cũng đã thấy, và đã biết những gì sẽ xảy 
ra!!! Khoảng nửa giờ sau, có mấy phát súng nổ. Mặc dù trừ bốn « trật tự »
 và đội công an hành quyết, không có một ai biết, hay thấy được giây 
phút cuối cùng của ông Trần Quang Trân, Nhưng nữ tù đều hiểu khi nhìn 
thấy chiếc quan tài khiêng đi bên cạnh ông, nên họ biết chắc chắn những 
phát súng đó là đã bắn vào ông Trân. Không cầm lòng được nữa, cả trại nữ
 khóc thét lên, tiếng khóc thấu Trời, làm bọn công an trên cơ quan nghe 
được. Vì thế, « cán bộ trực trại » tên Trịnh Thị Thư vợ của « giám thị »
 Huỳnh văn Hưng người Bình Dương, Thăng Bình, Quảng Nam, đã xuống trại, y
 thị phùng mang trợn mắt hét chúng tôi, bảo tất cả vào phòng khóa cửa 
lại. Y còn nói: « Nếu các chị còn khóc tui sẽ cùm đầu hết ». Nhưng chúng
 tôi không sợ, vì cùm hết thì lấy ai ngày mai đi lao động.
    Trong những ngày đi cắt bổi (cắt những 
cành lá trên ngọn để bỏ vào chuồng trâu, bò làm phân bón ruộng) quanh Hố
 ông Hức, tôi đã bốn lần lén lút đến gần ngôi mộ ông Trần Quang Trân. 
Ông được chôn riêng trên ngọn đồi, dưới chân mộ là một gốc cây cao, có 
bóng mát tỏa xuống chở che một nắm xương tàn, một linh hồn, mà lúc sinh 
tiền là một tâm hồn cao Thượng. Những ngày bị cùm kẹp trong phòng biệt 
giam, những vị tù bị cùm bên cạnh phòng của ông, vẫn thường nghe ông hát
 lên những Bài Thánh Ca với lời nguyện cầu cho đất nuớc, cho đồng bào, 
cho những người tù đồng cảnh ngộ. Mỗi lần viếng mộ ông, tôi chỉ vừa đi 
vừa nhìn, chứ không bao giờ dám đứng lại, vì tất cả tù nhân nếu ai đến 
thăm mộ ông mà bị chúng bắt được, sẽ bị vào nhà cùm biệt giam cả.
Tôi cũng biết chắc chắn, khi VC mở tòa án
 tại trại để tuyên án tử hình ông Trần Quang Trân, cũng nhu lúc xử bắn 
VC đều không cho thân nhân và vợ, con ông ở Xuân Hòa, Xuân Lộc, Đồng Nai
 được biết.
     Nói về những vị đã chết trong trại tù còn
 nhiều lắm, khó có thể viết đầy đủ trên một trang báo. Nên tôi lại xin 
phép nữa để viết về một hòan cảnh thương tâm khác của một người, hay nói
 đúng hơn là của một gia đình đã bị VC đọa đày đến cảnh khốn cùng, nếu 
không có niềm tin nơi Đấng Tối Cao thì tôi chắc họ đã không làm sao vuợt
 qua được những đớn đau, nghiệt ngã, oan khiên mà đảng Cộng sản Việt Nam
 đã giáng cho gia đình ấy, đó là trường hợp của gia đình Giáo Sư Thượng Nghị Sĩ Bùi Văn Giải.
 Khi di cư vào Nam năm 1954, ông làm nghề dạy học, bà tảo tần buôn bán, 
tiết kiệm dành dụm tạo được một căn nhà tại phuờng Tam Tòa, đường Trần 
Cao Vân Đà Nẵng. Khi ông vào tù cải tạo, công an Đà Nẵng đa4 tịch thu 
căn nhà của ông bà. Bà đau buồn, ngã bệnh rồi mất ở tuổi đời 36. Ngày 
mất mẹ, các con ông và người thân đồng cầu khẩn VC cho ông về chôn cất 
vợ xong rồi tiếp tục vào tù, Nhưng VC vẫn không cho. Ông đã không được 
nhìn mặt người bạn trăm năm vào giây phút cuối cùng!!! Nhờ bà con giúp 
đỡ, các con ông chôn mẹ, trong lúc cha vẫn ở trong tù!!! Chỉ có Trời cao
 mới thấu được nỗi đau thương của các con ông Bùi Văn Giải khi vấn vành 
khăn tang khóc mẹ, cũng như nỗi đớn đau của ông Bùi Văn Giải ở trong 
trại tù “cải tạo”!!!
Những năm dài ở trong lao lý, Giáo Sư Bùi
 Văn Giải đã từng bị đưa vào nhà “Biệt giam 2.79″ tức Đồng Mộ và nhà 
“Biệt giam Nhà Trắng” cùng với nhiều vị sĩ quan cao cấp và các vị cán bộ
 lãnh đạo cao cấp của các chính đảng. Khi bị bệnh nặng Giáo sư Bùi Văn 
Giải phải vào bệnh xá Trại 1 (trại chính), khi xuất viện ông lao động ở 
tổ rau xanh sau trại nữ, thời gian này tôi vẫn thường thấy ông với mái 
tóc bạc phơ, tấm thân gầy yếu, Nhưng tiếng hát của ông qua những Bài 
Thánh Ca nghe vẫn vút cao như bay đến tận Trời xanh.
     Ngày ra tù, theo lời Thầy, tôi đến thăm 
các con của Thầy. Được biết khi tịch thu nhà, công an Đà Nẵng nói là vì «
 nhân đạo » nên chừa lại một phòng trong căn nhà của ông bà chỉ bốn mét 
vuông, để các con ông ăn, ngủ, còn nấu nuớng thì phải nhóm bếp ngoài 
sân. Nhưng những ngày mưa và mùa đông thì phải dời bếp vào phòng, bốn 
đứa con ông bà phải ăn, ngủ chung với tro và khói bếp. Nhưng chưa đủ, 
công an còn buộc các con của Giáo Sư Bùi Văn Giải phải trả tiền nhà hàng
 tháng cho Ty nhà đất, vì căn nhà đã thuộc sự quản lý của nhà nuớc!!!
Với hoàn cảnh bơ vơ, cha ở tù, mất mẹ, 
các con ông phải bỏ học, đứa vá xe đạp, đứa làm thuê. Riêng Thu con gái 
út, là con gái yếu đuối lại còn nhỏ, nên phải làm nghề thêu, may mướn để
 góp phần trả tiền thuê cho chính căn nhà mà do mồ hôi, nuớc mắt của cha
 mẹ mình đãà tạo nên. Vì nếu không trả thì sẽ bị đuổi ra khỏi phòng, rồi
 phải lang thang đầu đường xó chợ. Sau 13 năm tù cải tạo, ông đã sang 
Hoa Kỳ và hiện đang là Chủ nhiệm Nguyệt san Về Bên Mẹ La Vang tại Portland, Hoa Kỳ.
   Tạm thay lời kết:
Khi viết đến những dòng này, tôi bỗng 
thấy có hơi buồn; bởi chúng tôi biết có rất nhiều người đã biết, đã thấy
 những hành vi tàn ác của Phật Giáo Ấn Quang trong suốt bao nhiêu năm 
qua. Song cho đến giờ này cũng chỉ thấy xuất hiện một số ít bài viết về 
các biến cố như: Cuộc thảm sát tại Thanh Bồ – Đức Lợi, 24-08-1964- Cuộc 
Bạo Loạn tại miền Trung, mùa hè 1966, Cuộc Thảm Sát Tết Mậu Thân, 1968 
và về ngày nước Việt Nam Cộng Hòa đã rơi vào tay của cộng sản Hà Nội: 
30-04-1975. Nhưng, tất cả họ đã vì một lẽ nào đó, nên đều tránh né, 
không muốn hay không dám viết hết những sự thật. Chúng tôi nghĩ rằng, có
 thể bởi bị ám ảnh với những hình ảnh giết người của Ấn Quang nên họ sợ 
đụng chạm, hoặc vì đang đứng ở vào một tổ chức nào đó mà phải cần đến Ấn
 Quang; và còn một lý do khác nữa là họ sợ một ngày nào đó phải cần đến 
lá phiếu của Ấn Quang. Riêng kẻ viết bài này là một người không hề có 
tham vọng về chính trị, nên dù bất kể một thế lực nào cầm quyền tại Việt
 Nam, kẻ này cũng không màng đến một địa vị, chức tước gì cả. 
Vì thế, 
nên không bao giờ cần đến bất cứ một lá phiếu nào; mà điều duy nhất của 
người viết những loạt bài này là đã tâm nguyện: Suốt đời chỉ làm một 
người cầm bút, để viết lên tất cả những gì mắt thấy, tai nghe, thấy sao 
nói vậy, nhớ đâu viết đó. Viết với tất cả tâm thành để cho lớp trẻ sau 
này còn biết đến những hành vi tàn ác, bất nhân của những kẻ đã từng 
gieo rắc tang thương, máu lệ cho đồng bào vô tội; hầu cho họ biết đường 
mà tránh xa phuờng lục lâm, tặc phỉ, để khỏi rơi xuống hố sâu của tội 
ác. Bởi đó, chính là lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút.
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
 
 
No comments:
Post a Comment