Tóm lược: Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết bài hát "Tình thiên
 thu" vào năm 1974 về chuyện tình thương tâm giữa một người con 
gái có mơ ước bình thường và một chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
 Bài hát được thể hiện dưới dạng ballad, và có lối diễn tả 
kể chuyện và dùng vần điệu theo thi ca truyền thống. Với bố 
cục chặt chẽ và cách gieo vần tài tình, tác giả giàn dựng 
một câu chuyện gây cảm xúc mạnh trên khán giả.
*
Bài hát "Tình thiên thu" do nhạc
 sĩ Trần Thiện Thanh viết vào năm 1974 (Xem Nhạc Việt trước 75),
 về chuyện tình buồn giữa một thiếu nữ và một chiến sĩ Biệt
 Động Quân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Nhan đề đầy
 đủ của bài hát là "Tình Thiên Thu của Nguyễn Thị Mộng 
Thường." Cho gọn, tôi sẽ chỉ dùng "Tình Thiên Thu." 
Trần Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng
 6 năm 1942 tại Phan Thiết, Ông là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng 
nhất trong miền Nam Việt Nam trước 1975. Ông còn là ca sĩ với tên Nhật
 Trường và được xem là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc 
vàng ("tứ trụ nhạc vàng"). Ba người còn lại là: Hùng Cường, Duy Khánh, 
và Chế Linh (Wikipedia 2014a). Ông phục vụ tại Cục Tâm lý chiến Bộ Tổng 
tham mưu QLVNCH cho đến cuối tháng tư năm 1975. Ông cũng làm việc tại 
Ðài Phát thanh và Truyền hình Quân Ðội, từng là Trưởng ban văn nghệ của 
đài và sau năm 1968 còn phụ trách thêm chương trình phóng sự chiến 
trường.
Đầu thập niên 1970, ông thực hiện 
một số nhạc cảnh cùng với ca sĩ Thanh Lan, sau này chuyển thành 
phim kịch như "Trên Đỉnh Mùa Đông" và "Mộng Thường" ("Người Chết
 Trở Về") trên đài truyền hình. Năm 1993, ông di cư sang Hoa Kỳ và
 tiếp tục các hoạt động sáng tác và trình diễn âm nhạc. Ông 
mất ngày 13 tháng 5 năm 2005 tại Westminster, Quận Orange, 
California.
Trần Thiện Thanh viết hàng trăm 
tác phẩm, phần lớn có chủ đề về tình yêu và lính. Nhạc lính 
của ông "không có thù hận, gay gắt, kích động hoặc u uất, bi thảm mà 
thường là trong sáng vui tươi làm thi vị hóa và lãng mạn hóa đời lính 
gian khổ" (Wikipedia 2014a).
Nguyên văn lời bài hát như sau 
(Nhạc Việt trước 75). Cho tiện lợi cho việc thảo luận, tôi chia 
bài hát ra thành mười đoạn (stanza), đánh số từ 1 tới 10 (Xem 
Hình 1). Đoạn 7 có 9 câu, chia ra thành 3 đoạn nhỏ 7a, 7b, và 7c.
 Các đoạn khác đều có 4 câu.
Vẫn biết trên cõi đời 
thường yêu thường mơ lứa đôi 
Nếu biết sống giữa trời
tình yêu là con nước trôi 
Trôi lang thang qua từng miền
Trôi lang thang qua từng miền
Lúc êm ái xuôi đồng bằng. 
Cũng có lúc thác cùng ghềnh
chia đường con nước êm
Mời bạn nghe chuyện thê lương 
Khóc cho người lỡ yêu đương 
Trời già nhưng còn ghen tuông
Cách chia người trót thương
Em xinh em tên Mộng Thường
mẹ gọi em bé xinh
Em tên em tên Mộng Thường
cha gọi em bé ngoan
Đến lúc biết mơ mộng
như những cô gái xuân nồng 
Nàng yêu anh quân nhân Biệt Động
trong một ngày cuối đông
Chuyện tình trong thời giao tranh
Chuyện tình trong thời giao tranh
vẫn như làn khói mong manh 
Chàng về đơn vị xa xăm
nàng nghe nặng nhớ mong 
Yêu nhau lúc triền miên khói lửa
Chuyện vui buồn ai biết ra sao 
Nhìn quanh mình sao lắm thương đau
Khi không thấy người yêu trở lại 
Tình yêu tìm không thấy ban mai 
Người không tìm ra dấu tương lai
Nhưng không chết người trai khói lửa 
Mà chết người gái nhỏ phương xa 
Một xuân buồn có gió đông qua 
Xin cho yêu trong Mộng Thường
nhưng mộng thường cũng tan 
Xin cho đi chung một đường
sao định mệnh chắn ngang 
Xin ghi tên chung thiệp hồng
Phút giây bỗng nghe ngỡ ngàng 
Cô dâu chưa về nhà chồng 
Ôi lạnh lùng nghĩa trang
Chàng thề không còn yêu ai
dẫu cho ngày tháng phôi phai
Nhiều lần chàng mộng liêu trai
Nàng hẹn chàng kiếp mai.
Như đa số 
các bài hát khác, lời nhạc thường bị sửa đổi, vô tình hay cố
 ý, và nhiều khi làm giảm ý nghĩa của bài hát. Thí dụ như 
"thác cùng ghềnh" thành "thác gập ghềnh," "đường con nước êm" 
thành "từng con nước xuôi," "ghen tuông" thành "ghen tương," "gái 
nhỏ phương xa" thành "em nhỏ phương xa," "Một xuân buồn" thành "Một 
đêm buồn." Cũng may là những sửa đổi này không có gì là quan 
trọng lắm và không thay đổi ý nhiều.
Trong bài này, tôi sẽ trình bày
 nhận xét về nội dung và hình thức của "Tình Thiên Thu." Ngoài
 ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng 
thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của lời nhạc. 
Tôi cũng sẽ đề cập chút it về ô nhịp và cho thí dụ về tương 
ứng giữa các nốt nhạc và lời nhạc trong câu để giúp cho việc 
phân tách vần điệu trong các câu. 
A. "Tình thiên thu" được viết theo dạng ballad biến thái theo kiểu Việt Nam:
"Tình thiên thu" là một ballad 
(ba lát) theo kiểu Việt Nam, và có chút khác biệt với các 
loại nhạc khác về nội dung và hình thức.
Ballad bắt nguồn từ thi ca tại 
quần đảo Anh thời trung cổ cho tới thế kỷ 19 và được truyền 
bá qua Âu châu, Bắc Mỹ, Úc, và Bắc Phi (Wikipedia 2014b). Ballad, 
theo định nghĩa, là một dạng thơ, thường là kể chuyện, viết 
cho âm nhạc. Nghĩa là ballad là thơ viết với mục đích là bài 
hát, thường kèm theo vũ điệu. Do đó không có sửa đổi lời trong
 bài thơ vì bài thơ chính là bài hát. Truyền thống ballad 
thường có quy luật âm tiết và vần điệu cố định. Thông thường 
ballad gồm có nhiều đoạn (stanza), mỗi đoạn có bốn câu chia 
thành hai cặp (couplets). Vần thì theo thể ABCB, nghĩa là câu 2 
và câu 4 có vần, trong khi câu 1 và câu 3 không vần. Âm tiết thì 
theo luật 4 tiết nhấn rồi 3 tiết nhấn trong mỗi cặp (Xem, thí 
dụ như, Batema).
Ballad hiện nay đã được thay đổi
 nhiều và có nhiều loại. Vần điệu và âm tiết không còn cố 
định và cứng ngắc như xưa nữa. 
Về nội dung, ballad khác với thơ
 trên hai phương diện chính. Thứ nhất là đặc tính kể chuyện. 
Ballad thường kể một câu chuyện nào đó có tình tiết mạch lạc,
 có đầu có đuôi, có nhân vật rõ rệt, hoặc địa danh, biến cố 
lịch sử, tình trạng xã hội. Thơ không nhất thiết là kể 
chuyện, và thường là tả cảnh hay tả tình. Thứ nhì, người kể 
câu chuyện trong ballad có thể là người trong cuộc hoặc ngoài 
cuộc của câu chuyện, nhưng điểm quan trọng là người kể giữ 
thái độ khách quan. Ngược lại, thơ có lối diễn tả chủ quan 
của người viết bài thơ, và chính cách diễn tả là cái cốt 
lõi của bài thơ. 
Về hình thức, ballad luôn luôn 
có vần điệu, tuy không còn quy luật khắt khe như xưa. Nhiều khi, 
vần xuất hiện trong cả một đoạn. Ngoài ra, ballad thường có 
điệp khúc. Thơ có thể có vần hoặc không vần (thơ tự do, thơ văn
 xuôi). Thơ có thể có hay không có điệp khúc. 
Ca khúc "Tình thiên thu" là một 
ballad vì nó kể một câu chuyện tình có đầu đuôi với các nhân 
vật rõ rệt một cách khách quan, không có phê phán hoặc mô tả 
chủ quan. Về hình thức, "Tình thiên thu" có cấu trúc khá quy 
củ và dùng vần rất nhiều, kể cả vần trong cả một đoạn. Có 
nhiều bài hát trong nền âm nhạc Việt Nam trước 1975 được viết 
theo thể loại này. Thí dụ: "Chuyện Một Cây Cầu Đã Gẫy,""Huyền
 Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc," "Hòn Vọng Phu 1-2-3," "Bà Mẹ 
Trị Thiên," và "Ngày Trở Về." 
Tại sao ta cần biết phân loại ca khúc "Tình Thiên Thu" là ballad? 
Sự phân loại đó rất quan trọng 
vì khi hiểu đó là một ballad, ta mới đánh giá thích đáng bài 
hát và hiểu được giá trị của nó, như sẽ được trình bày trong
 phần sau đây.
B. "Tình
 Thiên Thu" kể một câu chuyện tình buồn trong kịch phim "Mộng 
Thường" chiếu trên truyền hình tại miền Nam Việt Nam
Ca khúc "Tình Thiên Thu" kể một 
câu chuyện tình buồn được giàn dựng qua kịch phim "Mộng Thường"
 hoặc "Người Chết Trở Về" chiếu trên truyền hình năm 1974 tại 
miền Nam Việt Nam. Câu chuyện này được kể trên văn bản in trong 
tờ nhạc của "Tình Thiên Thu" như sau.
Thiếu úy Phạm Thái, một sĩ 
quan vừa mãn khoá trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt quen Nguyễn 
Thị Mộng Thường, một nữ tiếp viên hàng không, trên chuyến bay 
từ Đà Lạt trở về. Trong đêm Giáng Sinh 1971, hai người dự thánh
 lễ và yêu nhau. Sau đó, vào tháng 1 năm 1972, Phạm Thái được 
bổ nhiệm về Biệt Động Quân tại An Lộc. Vào tháng 4 năm 1972, 
sau một trận đánh dữ dội, Phạm Thái được ghi nhận là hy sinh. 
Nghe tin, M̀ộng Thường "như mất tất cả." Nhưng rồi, Phạm Thái 
trở về. Té ra anh không chết mà chỉ bị thương nặng và được 
một bà sơ cứu sống. Phạm Thái hội ngộ với Mộng Thường, tình 
yêu "hồi sinh," và hai người chọn ngày đám cưới.
Phạm Thái được vinh thăng Trung 
úy. Anh mời Mộng Thường lên Lai Khê dự lễ vinh thăng. Mộng 
Thường đi chuyến xe đò Sài gòn - Lai Khê vào ngày 28-1-1973, một
 ngày sau ngày Hiệp định 1973 được ký. Không may, Việt cộng đặt
 mìn trên đoạn đường này sau ngày ngưng bắn. Xe đò chở Mộng 
Thường cán mìn và Mộng Thường tử nạn. Từ đó, Phạm Thái 
thường ngồi bên mộ Mộng Thường, nhìn trời cao để mong thấy 
nàng "mỉm cười trên cõi chết."
Câu chuyện bi thương đó được coi là câu chuyện có thật như được ghi nhận trên nhiều trang mạng.
Câu chuyện có thật hay không?
Thực ra, câu chuyện có thật hay 
không cũng không quan trọng cho lắm trên phương diện giá trị âm 
nhạc. Nhiều người vẫn thưởng thức nhạc qua một câu chuyện giả 
tưởng. Cái chết của Mộng Thường, tuy bi thảm, không có gì là 
đặc biệt. Việt cộng đặt mìn trên đường xá làm nổ tung xe đò, 
giết biết bao nhiêu dân vô tội, rất thường xuyên. Trong biết bao 
nhiêu cuộc tình thời binh lửa, có nhiều chuyện người con gái 
chết, thay vì người yêu là chiến sĩ. Tuy nhiên, một bài hát, 
bài thơ, vở kịch, cuốn phim, truyện nói về một câu chuyện có 
thật thường tăng thêm khía cạnh bi thương và gây ấn tượng mạnh 
trên khán giả. (Ở đây, tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, 
người đọc, hoặc người xem.) Trên phương diện văn chương lịch sử, 
các nhân vật trong câu chuyện có thật thường được dùng là biểu
 tượng cho ý nghĩa thiêng liêng cao cả. Nhiều khi tên của nhân 
vật có thật hoặc tích truyện được dùng cho địa danh như đường 
xá, công trường, trường học, để nhắc nhở hậu thế tinh thần 
thiêng liêng cao cả đó.
Chính quyền cộng sản tạo dựng 
nhân vật Lê Văn Tám và cuộc đời Nguyễn Văn Bé và dùng tên họ 
cho đường xá, trường học, công viên, v.v. Như được thảo luận 
trong bài trước (Cao-Đắc 2014c), hậu quả tai hại của chuyện 
dùng tên các nhân vật tưởng tượng hoặc tên thật nhưng với hành 
động hy sinh tưởng tượng là khiến cho các nhân vật lịch sử 
hoặc các hy sinh có thật bị mang tiếng xấu lây và có thể bị 
coi là tưởng tượng. Do đó, các thế hệ sau sẽ có khuynh hướng 
coi thường lịch sử và có ấn tượng xấu về những nhân vật hoặc
 sự kiện lịch sử có thật. Do đó, rất quan trọng là ta phải 
duy trì tính chất trung thực của các câu chuyện hoặc nhân vật 
có tác dụng lịch sử hoặc văn hóa.
Tôi không rõ vai trò lịch sử 
hoặc văn hóa của câu chuyện Phạm Thái và Nguyễn Thị Mộng 
Thường như thế nào. Có thể câu chuyện đó không có tác dụng gì
 nhiều hơn là làm tô điểm thêm cho bài hát về tình yêu. Nhưng 
cũng có thể các thế hệ sau sẽ dùng câu chuyện đó là tiêu 
biểu cho tội ác cộng sản trong việc đặt mìn làm nổ tung các 
chuyến xe đò chở thường dân vô tội. Nếu câu chuyện có thật thì
 không nói làm chi. Nhưng nếu câu chuyện không có thật, hoặc chỉ
 có thật một phần, thì ta nên làm sáng tỏ bây giờ để tránh 
những hậu quả tác hại sau này.
Câu chuyện Phạm Thái và Nguyễn Thị Mộng Thường không có thật, it nhất là không có thật hoàn toàn:
Tôi không rõ những nguồn viết 
là câu chuyện Phạm Thái và Nguyễn Thị Mộng Thường có thật, 
lấy chứng cớ ở đâu. Nhưng theo những chứng cớ mà tôi thâu thập 
được thì câu chuyện Phạm Thái và Nguyễn Thị Mộng Thường không 
có thật, it nhất là không có thật hoàn toàn theo những chi 
tiết viết ra trên tờ nhạc nguyên gốc. Có rất nhiều bằng chứng 
cho việc này.
Thứ nhất, văn bản chính về câu 
chuyện Phạm Thái và Nguyễn Thị Mộng Thường trên tờ nhạc gốc 
không hề xác nhận đó là chuyện có thật. Ngược lại, văn bản 
đó ghi rõ một cách không lầm lẫn là "phim kịch Mộng Thường" 
trên tờ bìa ngoài (Nhạc Việt trước 75). Nếu chỉ ghi "phim kịch 
Mộng Thường," thì cũng chưa đủ để kết luận câu chuyện đó là 
giả tưởng, vì nhan đề một vở kịch không cho biết tính chất có
 thật của câu chuyện. Thí dụ ta vẫn có thể có "phim kịch Hàn 
Mặc Tử" (sau khi Hàn Mặc Tử qua đời). Tuy nhiên, "Mộng Thường" 
không phải là một nhân vật đã được xác nhận là có thật trước
 khi có phim kịch Mộng Thường như Hàn Mặc Tử. Thực ra, nhân vật
 Mộng Thường chỉ được nêu ra lần đầu trong phim kịch Mộng 
Thường. Vì nhân vật đó mới xuất hiện lần đầu, tờ nhạc về 
phim kịch Mộng Thường phải xác nhận nguồn gốc về nhân vật 
này.
Tuy nhiên, tờ nhạc ghi rõ ràng: "(Cho Phim Kịch MỘNG THƯỜNG)"
Tờ nhạc không hề đề cập đến 
một nhân vật có thật, trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhóm chữ "Cho
 Phim Kịch MỘNG THƯỜNG" cho thấy rõ ràng là bài hát chỉ được 
viết cho phim kịch Mộng Thường mà thôi. Nếu nhân vật Mộng 
Thường (trong câu chuyện) có thật, thì tờ nhạc phải ghi rõ là 
viết "Cho Mộng Thường" thay vì "Cho Phim Kịch MỘNG THƯỜNG." 
Chỉ với bằng cớ đó thôi, ta 
cũng đủ kết luận nhân vật Mộng Thường là không có thật. Tuy 
nhiên, với một số người yêu chuộng bài hát có thể sẽ không 
được thuyết phục hoàn toàn. Thực ra, có nhiều bằng cớ khác.
Bằng cớ khác là thói quen của 
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Ông luôn luôn ghi rõ rệt trên tờ nhạc 
gốc tên của nhân vật có thật (nếu nhân vật đó chưa được biết 
rộng rãi), hoặc một ghi chú gián tiếp nào đó về nhân vật đó 
(nếu nhân vật đó đã được biết đến rộng rãi). Đó không phải 
là một thói quen ngẫu nhiên mà là một thói quen nghề nghiệp. 
Do đó, tính chất nhất quán của thói quen đó rất quan trọng. 
Trong các bài khác về các nhân vật có thật, Trần Thiện Thanh 
luôn luôn ghi rõ tên nhân vật đó trên trang nhạc. Sau đây là vài 
thí dụ:
Rừng Lá Thấp: "Cho 
ANH HÙNG BÌNH LỢI/ Cố Đại Úy Vũ-Mạnh-Hùng/ Tiểu đoàn 3 Thủy 
Quân Lục Chiến." Trần Thiện Thanh còn ghi lại kỷ niệm giữa ông 
với Đại Úy Hùng trên trang nhạc và tình bằng hữu mười mấy 
năm.
Anh Không Chết Đâu Em: "Tiếc thương ca cho người mũ đỏ tên Đương."
Người Ở Lại Charlie: "tiếc thương ca cho NG. ĐÌNH BẢO."
Những người nghi ngờ vẫn có 
thể không thuyết phục và lý luận rằng vì các sĩ quan VNCH hy 
sinh cho tổ quốc trên chiến trường nên Trần Thiện Thanh vinh danh 
họ rõ rệt trên trang nhạc. Ngược lại, Mộng Thường không phải 
là một chiến sĩ VNCH và là nạn nhân chiến tranh nên không có 
cùng sự vinh danh. Lý luận này sai lầm vì không thể tin là 
Trần Thiện Thanh có sự phân biệt giữa chiến sĩ và thường dân. 
Ngoài ra, như đã viết ở trên, Trần Thiện Thanh có thói quen 
nghề nghiệp ghi chú trực tiếp hoặc gián tiếp cho các nhân vật 
có thật, quân sự hay dân sự, ngay cả những người nổi tiếng. 
Thí dụ trên trang nhạc "Tâm Sự Mộng Cầm," ông ghi chú gián tiếp
 mối liên hệ giữa Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử qua một bài thơ của
 Hàn Mặc Tử ("Ôi trời ơi là Phan Thiết! Phan Thiết/ Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu/ Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư. ") Trên trang nhạc "Hàn Mặc Tử," ông ghi một bài thơ của Hàn Mặc Tử ("Trời hỡi
 làm sao khi khát đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn?/Làm sao 
giết được người trong mộng?/ Để trả thù duyên kiếp phũ phàng.")
 Với những người nổi tiếng mà Trần Thiện Thanh còn cẩn thận 
ghi chú, huống hồ với những người chưa ai biết đến?
Việc Trần Thiện Thanh không có 
ghi chú đặc biệt, trực tiếp hay gián tiếp, về nhân vật Mộng 
Thường cho thấy Mộng Thường không phải là một nhân vật có thật
 mà chỉ là một nhân vật trong một vở phim kịch. Có thể nhân 
vật đó quả thật chế̉t trên xe đò bị mìn cùa Việt cộng 
(chuyện rất thường xảy ra), nhưng người đó không có tên Mộng 
Thường, và có thể không có người yêu tên là Phạm Thái, một sĩ
 quan BĐQ; hoặc người đó quả thật có tên Nguyễn Thị Mộng 
Thường, nhưng cô không có người yêu tên là Phạm Thái.
Một bằng cớ hùng hồn nữa là 
nhân vật Phạm Thái. Theo câu chuyện, Phạm Thái tốt nghiệp 
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Đà Lạt vào cuối năm 1971. Đó 
là khóa 24. Trong danh sách các tân sĩ quan tốt nghiệp khóa 24, 
không có tên Phạm Thái. Chỉ có hai người tên Thái là Nguyễn Văn
 Thái và Dương Văn Thái (Xem, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam). 
Chính một cựu sĩ quan khóa 24 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Nguyễn 
Phán, đề cập đến chuyện này trong một bài hồi ký về An Lộc 
đăng trên mạng (Nguyễn Phán). Thực ra, ông Nguyễn Phán còn tự 
hỏi không biết có phải Trần Thiện Thanh dùng nhân vật Phạm 
Thái trong phim kịch Nguyễn Thị Mộng Thường sau khi nghe chương 
trình phát thanh phỏng vấn ông và hai bạn đồng khóa sau một 
trận đánh. Ông Nguyễn Phán xác nhận là không có ai tên Phạm 
Thái trong khóa 24 (Nguyễn Phán).
Những bằng chứng cụ thể và 
mạnh mẽ trên đưa đến kết luận khó cãi lại là câu chuyện Phạm 
Thái và Nguyễn Thị Mộng Thường không có thật. Như trình bày ở
 trên, điều đó không có nghĩa lả các chi tiết trong chuyện hoàn
 toàn giả tưởng. Nhưng mức độ có thật của tình tiết trong câu 
chuyện giảm đi theo mức độ đặc thù của tình tiết đó. Chuyện 
một thiếu nữ chết trên chuyến xe đò Sài gòn - Lai Khê vào ngày
 28-1-1973 vì bị mìn do Việt cộng gài rất có thể có thật. 
Chuyện người thiếu nữ đó có một người yêu là chiến sĩ trong 
QLVNCH cũng rất có thể có thật. Chiến sĩ đó là một Biệt 
động quân cũng có thể có thật nhưng mức độ có thật giảm 
xuống, v.v...
Hai chi tiết lý thú là cái tên 
Phạm Thái và Nguyễn Thị Mộng Thường. Hai tên này không có gì 
là khác thường, nhưng có trùng hợp đáng ghi chú. Tên thật của 
ca sĩ Thanh Lan đóng vai Nguyễn Thị Mộng Thường là Phạm Thái 
Thanh Lan. Mộng Thường là tên thi sĩ của bài thơ Trần Thiện 
Thanh ghi trên trang nhạc "Đôi Ngả Đôi Ta" (Nếu... một người đi rồi/ Chuyện đời thành chia phôi)
 viết vào năm 1964. Ta không hiểu có phải Trần Thiện Thanh quen 
thuộc với hai tên này mà đặt tên cho hai nhân vật trong phim kịch
 Mộng Thường.
Câu chuyện có thật hay không ảnh
 hưởng rất ít vào giá trị của bài hát. Tôi nêu lên vấn đề 
này vì muốn duy trì tính chất xác thực của lịch sử và/ hoặc
 văn học, xã hội học.
Bài hát có bố cục chặt chẽ và rõ rệt theo lối kể chuyện thuần túy:
Là một ballad, "Tình Thiên Thu" 
có phần mở đầu giới thiệu câu chuyện, tiếp theo lả tình tiết 
câu chuyện và sau cùng là kết thúc câu chuyện. Bố cục đó khá 
rõ ràng và rất thông thường cho nhạc ballad. Phần mở đầu gồm 
có đoạn 1, 2, và 3. Phần thân bài gổm có đoạn 4, 5, 6, và 7. 
Phần kết luận gồm có đoạn 8, 9, và 10 (Hình 1).
Trần Thiện Thanh có phần mở 
đầu khá dài dòng văn tự. Trước hết, ông tuyên bố rằng cuộc 
đời thường có mơ ước chuyện yêu đương ("Vẫn biết trên cõi đời/ thường yêu thường mơ lứa đôi.")
 Nhận xét đó cũng không có gì là quá đáng, nếu không muốn 
nói là khá đúng sự thật cho đa số người trẻ. Sau đó, ông ví 
von tình yêu như một giòng sông, có khúc êm ả thanh bình, có 
khúc gập ghềnh sóng gió ("Nếu biết
 sống giữa trời/ tình yêu là con nước trôi/ Trôi lang thang qua từng 
miền/ Lúc êm ái xuôi đồng bằng/ Cũng có lúc thác cùng ghềnh/ chia 
đường con nước êm.") Cái ví 
von này cũng có lý vì thường các chuyện tình có nhiều ngang 
trái. Ta cũng biết có nhiều chuyện tình đẹp không có gì thác 
cùng ghềnh trắc trở cả. Đương nhiên Trần Thiện Thanh không nói 
là cái so sánh của ông có giá trị tuyệt đối. Ông dùng nhận 
xét đó để dẫn đến câu chuyện. 
Ông 
báo trước chuyện tình này là "chuyện thê lương" để chuẩn bị 
tinh thần khán giả và sắp đặt tình tiết câu chuyện ("Mời bạn nghe chuyện thê lương/ Khóc cho người lỡ yêu đương.") Không những thế, tác giả còn trách móc ông Trời già ghen tức, tạo ra cảnh chia ly cho những kẻ yêu đương ("Trời già nhưng còn ghen tuông/ Cách chia người trót thương.")
 Bằng lối dùng "lỡ" và "trót," tác giả nhấn mạnh tính chất 
không cố ý của cuộc tình. Lối dùng này khác với lối dùng 
"lỡ" trong "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" như tôi trình bày trước 
đây (Cao-Đắc 2014b). Ở đây, tác giả chỉ muốn nói là hai người 
gặp nhau và yêu nhau một cách tình cờ và không có sự toan tính
 hoặc qua dàn xếp, mai mối, giới thiệu. Tác giả giàn dựng chi 
tiết này để chuẩn bị cho ước mơ bình thường của cô gái trong 
tình yêu trong câu chuyện sắp kể.
Dùng ba đoạn để giới thiệu câu 
chuyện tình quả thật là dông dài. Nhưng đó là một kỹ thuật 
của ballad. Ta thấy kỹ thuật đó được áp dụng trong nhiều ballad
 Mỹ, chẳng hạn như "American Pie" của Don McLean, "Hotel California"
 của The Eagles. Nhưng khác với các ballad của Mỹ, phần mở đầu 
của "Tình Thiên Thu" rõ rệt và báo trước khán giả nội dung câu
 chuyện. Đó là theo tâm tình người Việt. Một cách tổng quát, 
người Việt có bản chất bình dị và lối suy nghĩ đơn giản, 
không màu mè, phức tạp. Họ thường không muốn có sự hồi hộp, 
bất ngờ khi nghe câu chuyện. Kỹ thuật Mỹ hay tạo bất ngờ, hứng
 thú, và muốn khán giả phải chú tâm để ý chi tiết. Nghe phần 
mở đầu dài dòng của "American Pie" hoặc "Hotel California," khán 
giả vẫn chưa hiểu tác giả sẽ kể chuyện gì. 
Sau khi giới thiệu dài dòng, 
tác gỉả vô đề bằng nhân vật nữ. Đó là Mộng Thường, xinh đẹp 
và ngoan ngoãn, được cha mẹ thương yêu ("Em xinh em tên Mộng Thường/ mẹ gọi em bé xinh/ Em tên em tên Mộng Thường/ cha gọi em bé ngoan.")
 Ta nên để ý Trần Thiện Thanh cho biết tên nhân vật nữ, nhưng 
không cho biết tên nhân vật nam trong bài hát. Chi tiết này sẽ 
được tác giả khai thác sau vì cái tên Mộng Thường có ý nghĩa 
đặc biệt là mộng bình thường.
Mộng Thường lớn lên, và như mọi
 cô gái cùng trang lứa, nàng mơ mộng về tình yêu, và yêu một 
chiến sĩ Biệt động quân vào ngày cuối năm ("Đến lúc biết mơ mộng/ như những cô gái xuân nồng/ Nàng yêu anh quân nhân Biệt Động/ trong một ngày cuối đông.")
 Như bao mọi chuyện tình trong thời chiến khi người tình ở trong
 quân đội, có những lo âu, không biết người yêu sống chết thế 
nào. Ngoài ra còn có xa vắng trong lúc chàng phải đi đánh trận
 ("Chuyện tình trong thời giao tranh/ vẫn như làn khói mong manh/ Chàng về đơn vị xa xăm/ nàng nghe nặng nhớ mong.") 
Trong phần điệp khúc, Trần 
Thiện Thanh kể lể nỗi hoang mang cuộc tình trong thời chinh 
chiến, nhất là khi có những chuyện đau thương của những ngưởi 
khác ("Yêu nhau lúc triền miên khói lửa/ Chuyện vui buồn ai biết ra sao/ Nhìn quanh mình sao lắm thương đau.") Người yêu đi chinh chiến không trở lại khiến Mộng Thường không biết tương lai đi về đâu ("Khi không thấy người yêu trở lại/ Tình yêu tìm không thấy ban mai/ Người không tìm ra dấu tương lai.")
 Ta thấy tác giả không đả động gì đến chuyện người yêu nàng 
tưởng là đã hy sinh nhưng trở lại, hội ngộ với nàng, và hẹn 
làm đám cưới, như trong phim kịch Mộng Thường. Có thể những chi
 tiết này không quan trọng trong câu chuyện, và nếu kể thêm sẽ 
làm bài hát dài dòng lê thê.
Rồi bất ngờ, chàng không chết mà nàng lại chết ("Nhưng không chết người trai khói lửa/ Mà chết người em nhỏ phương xa/ Một đêm buồn có gió đông qua.")
 Trần Thiện Thanh không nói rõ nguyên nhân cái chết của nàng. Ta
 thấy đây là đặc điểm trong thi ca Việt Nam. Trong bài thơ "Màu 
Tím Hoa Sim," (được Dzũng Chinh phổ nhạc "Những Đồi Hoa Sim") 
tác giả Hữu Loan không cho biết lý do vợ chết, mà chỉ viết, 
"Nhưng không chết người trai khói lửa/ Mà chết người gái nhỏ hậu 
phương." Trong bài "Tám Điệp Khúc," Anh Việt Thu viết, "Ôi sóng 
thiêng em về Trời... Ôi núi thiêng em về nguồn." Ngay cả nhạc sĩ Mỹ 
cũng không nói rõ cái chết của người con gái trong tình yêu. 
Thí dụ như bài "Honey" của Bobby Russell, hát bởi Bobby Goldsboro,
 chỉ có câu thật vắn tắt, sau khi kể lể nhiều chi tiết về cô 
gái: "While she was there and all alone, the angels came." (Khi nàng ở đó và một mình, thiên thần đến.)
Việc một nhạc sĩ không cho biết
 lý do hoặc tả cái chết của người con gái trong chuyện tình 
cũng không có gì lạ. Trước hết, trừ phi chi tiết đó quan 
trọng, chi tiết đó liên hệ đến cá nhân, và tiết lộ chi tiết 
đó có sự xâm phạm đến người quá cố. Thứ nhì, người con gái 
thường được tôn trọng và ca ngợi trong chuyện tình. Cho biết chi
 tiết về cái chết của nàng có thể coi là thiếu lễ độ đến 
phái nữ và làm mất vẻ đẹp của người con gái. Tuy nhiên, trong 
"Tình Thiên Thu," Mộng Thường chết vì bị cộng sản đặt mìn làm
 nổ xe đò chở nàng. Nếu Trần Thiện Thanh muốn đả kích cộng 
sản thì đây là chi tiết tốt nhất.
     Nhưng như các nhạc sĩ khác 
của miền Nam trước 1975, ông không lợi dụng cơ hội đó. 
     Ngược 
lại, ông cho đó là định mệnh, và trách Trời đã "ghen tuông" 
cách chia hai người.  
Một lần nữa, Trần Thiện Thanh biểu hiện 
bản chất nhân bản, vị tha, và hiền hòa của dân miền Nam, khác 
hẳn với tuyên truyền cộng sản, lúc nào cũng chờ dịp để 
nguyền rủa hoặc bêu rếu VNCH, hoặc hô hào quân cộng sản chém 
giết quân dân miền Nam và tiêu diệt Mỹ Ngụy. Cũng nên để ý là 
Trần Thiện Thanh làm việc trong Cục Tâm Lý Chiến, QLVNCH. Tuy 
vậy, ông không bao giờ viết những bài nhạc đả kích cộng sản 
hoặc thúc giục chiến sĩ VNCH chém giết quân thù. Nếu có, ông 
chỉ đề cập vắn tắt (thí dụ như trong bài "Bà Mẹ Trị Thiên"). 
Khía cạnh nhân bản này xuất hiện hầu hết trong những bài hát 
của nền âm nhạc miền Nam trước 1975 như tôi đã trình bày trong 
các bài trước. 
Trở về câu chuyện, Mộng Thường,
 như tên nàng, chỉ muốn được yêu trong mộng bình thường, nhưng 
cũng không được, vì định mệnh oái oăm đã ngăn cản ước mơ đơn sơ
 của nàng ("Xin cho yêu trong Mộng Thường/ nhưng mộng thường cũng tan/ Xin cho đi chung một đường/ sao định mệnh chắn ngang.")
 Ta để ý tác giả khai thác tên cô gái khi ông lập lại tên Mộng 
Thường như danh từ chung không viết hoa. Lời hẹn đám cưới tan 
vỡ. Cô dâu tương lai chưa kịp về nhà chồng thì đã phải bị chôn 
trong nghĩa trang lạnh lùng ("Xin ghi tên chung thiệp hồng/ bỗng giây phút nghe ngỡ ngàng/ Cô dâu chưa về nhà chồng/ Ôi lạnh lùng nghĩa trang.")
 Ta phải hiểu đây là ý chính của bài hát. Tác giả muốn vạch 
ra sự đau thương của cuộc tình khi người con gái chỉ có một 
ước vọng đơn sơ mà trời già còn cay nghiệt không cho nàng cái 
ước vọng đơn sơ đó.
Người yêu nàng, anh chiến sĩ 
BĐQ, quá đau thương, thề không còn yêu ai nữa trong những năm 
tháng tới. Chàng mơ thấy nàng nhiều đêm, và hẹn nàng kiếp sau.
 ("Chàng thề không còn yêu ai/ dẫu cho ngày tháng phôi phai/ Nhiều lần chàng mộng liêu trai/ Chàng hẹn nàng kiếp mai.")
 Tác giả cho thấy nàng đã chết nhưng tình nàng không chết. Tác
 giả dùng "liêu trai" một cách táo bạo và cho ấn tượng kinh 
dị, huyền bí. Không gì huyền bí bằng nằm mơ thấy người yêu đã
 chết hiện về. Quả thật đó là mối tình thiên thu, vì chàng 
thề không còn yêu ai nữa, và vẫn mơ nàng hiện về hẹn chàng 
kiếp sau. 
"Tình Thiên Thu" là một ballad 
theo dạng truyền thống, với bố cục rõ ràng, kể một chuyện 
tình đau thương, Câu chuyện không nhiều tình tiết phức tạp éo 
le, nhưng bài hát gây cảm xúc mạnh cho khán giả. Đó là nhờ 
Trần Thiện Thanh kể câu chuyện qua cách diễn tả tuyệt vời đặc 
thù cho nhạc theo thể loại ballad như sẽ được trình bày sau đây.
C. "Tình
 Thiên Thu" dùng lối kể chuyện thuần túy và vần điệu thơ triệt
 để để diễn tả ý tưởng truyền cảm và hữu hiệu:
Như đã trình bày trên, việc xác
 nhận thể loại ballad cho "Tỉnh Thiên Thu" đóng vai trò quan 
trọng trong việc đánh giá trị bài hát và hiểu cách thức diễn
 tả ý tưởng. Có hai khía cạnh quan trọng trong cách thức diễn 
tả ý tưởng trong "Tỉnh Thiên Thu": Lối dùng "kể" và vần điệu.
Toàn bài hát dùng lối "kể" để diễn tả ý tưởng và hầu như không dùng kỹ thuật "cho thấy":
Trong các bài trước, tôi nhấn 
mạnh tầm quan trọng của hai kỹ thuật trong nghệ thuật viết: 
"Cho thấy, đừng kể" và "Chú trọng vào chi tiết cụ thể." Tôi 
cũng trình bày rằng các kỹ thuật này cũng nên dùng cẩn thận 
tùy vào trường hợp. 
Kỹ thuật "Cho thấy, đừng kể" 
làm cảnh tượng, nhân vật, ý tưởng sống động và lôi cuốn vì 
nó khiến khán giả tham gia vào câu chuyện. Bất lợi của kỹ 
thuật này là câu chuyện hoặc cảnh tượng có thể trở nên dài 
dòng và khán giả có thể mệt mỏi vì phải vận dụng trí óc 
để phối hợp các chi tiết đặc thù. Ngược
 lại, "kể" có lợi điểm là ngắn gọn, cho ̣khán giả một kết 
luận về cảnh tượng hoặc nhân vật một cách lẹ làng.
Thí dụ bạn đang muốn kể một 
tai nạn xe cộ. Với lối kể thuần túy, bạn có thể viết, "Hai 
chiếc xe tông nhau dữ dội trên xa lộ làm cản trở lưu thông, xe 
cộ bị kẹt cứng." Với kỹ thuật "Cho thấy, đừng kể," bạn có 
thể viết, "Một chiếc SUV húc vào bên hông một chiếc sedan trên 
làn đường nhanh. Đầu xe SUV cong lên, khói trong máy xe bốc mù 
mịt. Cửa chiếc sedan bị lõm vào như một mảnh giấy nhầu nát. 
Kính xe bể nát từng mảnh vụn, văng đầy trên mặt đường. Người 
lái xe loay hoay bên tay lái, máu me đầy mặt. Anh ta đang cố mở 
cửa xe mà không được. Bên các làn đường, xe cộ nhích từng chút
 nối đuôi nhau. Mọi người thò đầu ra cửa xe, mắt dán vào hai 
chiếc đang dính chùm nhau. Có người còn lấy điện thoại di động
 chụp hình hoặc quay phim."
Ta thấy ngay lối "kể" thuần túy
 ngắn gọn nhưng không gợi hình khiến người đọc như là người 
ngoại cuộc và chấp nhận câu chuyện một cách thụ động. Ngược 
lại, lối "cho thấy" vẽ ra cảnh tượng sống động và khiến người
 đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện. Người đọc, qua cách diễn tà 
"cho thấy" tưởng tượng ra ngay tai nạn đó "dữ dộí" và lưu thông
 bị cản trở, kẹt cứng. Tuy nhiên, lối "cho thấy" khiến đoạn văn
 dài dòng và người đọc phải vận dụng trí óc để tưởng tượng 
ra hình ảnh. Khi bị "cho thấy" quá nhiều, khán giả có thể bị 
căng thẳng, hồi hộp.
Trở về với "Tình Thiên Thu," cách diễn tả nào có lợi hơn?
Việc đó tùy vào ý tác giả. 
Nếu tác giả muốn câu chuyện có tính chất mô tả và lôi cuốn 
khán giả vào câu chuyện qua những hình ảnh gợi hình sống 
động, thì dùng "Cho thấy, đừng kể" đương nhiên là hay hơn. Còn 
nếu tác giả chỉ muốn kể lại một câu chuyện với các tình 
tiết chính và từ đó đưa ra những nhận xét và cảm nghĩ của 
mình thì "Kể, đừng cho thấy" có lợi hơn.
Trần Thiện Thanh quyết định dùng "Kể, đừng cho thấy." Tại sao? Có ít nhất ba câu trả lời.
Trước hết, bài "Tình Thiên Thu" 
mục đích là cho phim kịch "Mộng Thường." Hẳn nhiên là tác giả 
có ý định giàn dựng một nhạc cảnh công phu cho bài hát. Một 
phim kịch, với diễn viên là Thanh Lan trong vai Mộng Thường và 
Trần Thiện Thanh trong vai Phạm Thái, đương nhiên sẽ có những 
cảnh "cho thấy" qua cách diễn xuất, hoạt cảnh, v.v. Những cảnh 
diễn xuất này thường chưa được biết sẽ như thế nào khi bài 
hát được viết. Do đó, tác giả cố tình viết bài hát không có 
những chi tiết "cho thấy" vì không muốn bó buộc các diễn viên 
phải diễn xuất theo các mô tả trong bài hát. Ta thử tưởng 
tượng nếu bài hát có những cảnh "cho thấy" trong hai đoạn 8 và
 9 (ngay sau câu "Một xuân buồn có gió đông qua") để tả cảnh hai người bên nhau trong những giây phút cuối cùng của đời nàng:
Tay trong tay bên cạnh nàng
Sao nụ cười tắt im?
Môi run run ngăn lệ tràn
Vơi nhịp đập trái tim
Ôm nhau mê man nghẹn ngào
Mắt mi đẫm trong nỗi sầu
Nghe lung linh lời thều thào
Ôi còn gì nữa đâu?
Tôi không dám xúc phạm đến nhạc
 sĩ Trần Thiện Thanh khi viết các lời trên thay vào đoạn 8-9, 
nhưng chỉ muốn đưa ra một thí dụ. Hai đoạn trên là một thí dụ 
cho lối diễn tả "cho thấy" trong cảnh hai người ở bên nhau trong 
giây phút cuối cùng của đời nàng. Bạn thấy ngay là hai đoạn 
"cho thấy" này kém hiệu quả hơn "kể" ước mơ bình thường của 
nàng đã không thành sự thật. Ngoài ra, những động tác "tay 
trong tay," "nụ cười tắt im," "môi run run," "nhịp đập," "mắt mi 
đẫm," và "lời thều thào" có thể tạo ra khó khăn cho diễn viên 
hoặc ca sĩ diễn tả cảnh tượng. Tưởng tượng Băng Tâm (hoặc Đan 
Nguyên) phải ráng làm "môi run run" và buông "lời thều thào" khi 
đang lịm dần trong nhạc cảnh "Tình Thiên Thu" của trung tâm Asia!
Thứ nhì, không có gì sai khi 
dùng "Kể, đừng cho thấy" cho một bài ballad. Tác gỉả có thể 
muốn khán giả nghe câu chuyện một cách thụ động mà không phải 
tham gia vào câu chuyện. Như ta đã thấy, dùng "cho thấy" nhiều 
quá sẽ làm khán giả căng thẳng, mệt mỏi, và không được thư 
giãn. Không phải ai cũng muốn nghe những mô tả gợi hình, gợi 
thanh. Với nhiều người, "kể" giúp họ biết được tình tiết mau 
lẹ và họ không cần phải suy nghĩ. Ballad, tự nó, là kể 
chuyện. Nét chính yếu của ballad là tình tiết và nhận xét về
 câu chuyện, không phải lả cách diễn tả những tình tiết đó.
Thứ ba, thực ra qua câu chuyện 
Mộng Thường, cũng chẳng có đoạn nào mà "cho thấy" giúp cho 
bài hát. Vì ý chính của bài là ước mơ bình thường của cô 
gái muốn lập gia đình với người yêu nàng, không có chỗ nào để
 có thể "cho thấy" một cách hiệu quả. Có những cảnh sau đây: 
Hai người gặp nhau, hai người yêu nhau, chàng đánh trận và bị 
thương, nàng thương tiếc chàng, chàng trở về hội ngộ nàng, 
nàng đi xe cán mìn, hai người gặp nhau lần chót trước khi nàng 
chết. Tuy nhiên, vì "cho thấy" đòi hỏi dài dòng, ta không thể 
"cho thấy" trong mọi cảnh trên được mà phải chọn một cảnh quan 
trọng và có ý nghĩa nhất. Cảnh có ý nghĩa nhất liên hệ đến 
mối tình thiên thu là cảnh hai người gặp nhau lần chót trước 
khi nàng chết. Nhưng như tôi trình bày ở trên, tuy "cho thấy" 
cảnh đó vẽ ra cảnh tượng sống động và có thể tạo xúc cảm 
cho khán giả, sự "cho thấy," cho dù được diễn tả hay hơn các 
câu tôi viết, vẫn có vẻ rẻ tiền và làm mất đi cái cao quý 
của mối tình hai người. Tác giả có thể đã cân nhắc và quyết 
định "kể" về trách móc, tiếc nuối, là sao mơ ước nàng bình 
thường như vậy mà lại không được thành sự thật.
Bằng cách "kể, đừng cho thấy," 
tác giả đem lại tính chất nhất quán của một bài ballad thuần 
túy và dùng các câu ngắn gọn để nói lên ý chính câu chuyện. 
Ý chính đó là nỗi thương tiếc cho ước vọng đơn sơ bình thường 
của cô gái đã bị tan nát vì chiến tranh.
Cách gieo vần trong các đoạn rất tinh vi và chọn lọc, tạo nên giai điệu du dương, quyến luyến:
Một đặc điểm quan trọng của ballad là sự tận dụng vần điệu trong các câu trong đoạn nhạc. Một bài hát có thể kể lể một câu chuyện mạch lạc nhiều tình tiết, nhưng nếu vần điệu nghèo nàn thì cũng không thể gọi là ballad được.
Trước khi bàn đến cách gieo vần
 trong lời nhạc, ta nên hiểu cấu trúc của chữ trong câu và hiểu
 sự liên hệ giữa số chữ trong câu với số ô nhịp. Nhịp hoặc 
trường canh (bar, measure) là khoảng cách thời gian được chia đều
 trong một bản nhạc. Thông thường, nhịp được lập đi lập lại 
trong cả bài. Ô nhịp là một phần của khuông nhạc xác định vị trí 
của nhịp. Mỗi ô nhịp thường tương ứng với một câu trong lời 
nhạc. Số chỉ nhịp hay số ô nhịp là con số dưới dạng phân số 
cho biết số phách và độ dài của phách trong ô nhịp. Tương ứng 
với phách là nốt nhạc và dấu lặng (nghỉ). Nốt nhạc cho biết 
cao độ (đồ, rê, mi, fa, son, la, si) và trường độ hay độ dài 
(tròn, trắng, đen, móc đơn, móc kép, v.v.) của âm thanh. Dấu 
lặng cho biết độ dài của thời gian nghỉ (cho ca sĩ "lấy hơi" 
hoặc tạo nên tiết tấu đặc thù cho bài hát).
Tác giả sắp đặt số chữ trong 
một câu bằng cách ̣điều chỉnh độ ngắn dài cho mỗi chữ qua các
 kết hợp của các nốt nhạc và dấu lặng. Số ô nhịp của "Tình 
Thiên Thu" là 4/4. Nghĩa là mỗi ô nhịp có 4 phách, và độ dài 
cùa phách là nốt đen. Do đó, mỗi ô nhịp có thể có bất cứ 
kết hợp nào của nốt và dấu lặng, miễn là toàn thể ô nhịp 
tương đương với 4 nốt đen. Thí dụ: 4 nốt đen = 4 nốt móc đơn + 2 
nốt đen = 4 nốt móc đơn + 1 nốt đen + 1 lặng đen (một nốt đen có
 độ dài tương đương với hai nốt móc đơn hoặc một lặng đen).
Thí dụ, câu "Xin cho yêu trong Mộng Thường" có nốt tương ứng như sau: Xin (móc đơn) + cho (móc đơn) + yêu (móc đơn) + trong (móc đơn) + Mộng (đen) + Thường (đen). Nghĩa là hai chữ "Mộng" và "Thường" phải được kéo dài hai lần lâu hơn các chữ "xin," "cho," "yêu," "trong."
Câu "nhưng mộng thường cũng tan" có nốt tương ứng như sau: nhưng (móc đơn) + mộng (móc đơn) + thường (móc đơn) + cũng (móc đơn) + tan (đen) + lặng đen. Nghĩa là chữ "tan" phải được kéo dài hai lần lâu hơn các chữ "nhưng," " mộng," " thường," và sau đó là nghỉ lâu bằng thời gian của "tan."
Với những sắp xếp như vậy, số 
chữ trong một câu trong lời nhạc được thay đổi tùy vào giai 
điệu và tiết tấu tác giả muốn. Trong "Tình Thiên Thu," có câu 
có 7 chữ, 6 chữ, hoặc 5 chữ. Bằng cách thay đổi số chữ trong 
các câu trong một đoạn, tác giả tạo nên tiết tấu linh động, cho
 lời trôi chảy, và có vần điệu tự nhiên. Đa số câu trong các 
đoạn có 6 chữ, thỉnh thoảng biến thái thành 7 chữ hoặc 5 chữ.
 Những câu có 5 chữ, nhất là các câu chót trong một đoạn, có 
dấu lặng đen, dài hơn dấu lặng đơn của các câu 6 chữ, dùng để 
làm chỗ nghỉ cho ca sĩ và cho cả người nghe. Đặc biệt, các câu
 trong đoạn 7 có chính xác 7 chữ và dấu lặng đơn. Đó là vì 
phần chót của mỗi đoạn nhỏ (7a, 7b, 7c) là quãng nhạc không 
lời, dùng như quãng nghỉ cho ca sĩ và người nghe. 
Khi biết được số chữ trong câu, 
ta có thể xem xét lối gieo vần trong mỗi câu. Thông thường, vần 
của nhạc được gieo vào cuối câu.
Trần Thiện Thanh tận dụng vần 
điệu trong các phiên khúc để tạo ra nhịp điệu trôi chảy và âm 
tiết nhẹ nhàng. Ông gieo vần trong tất cả các đoạn với các 
lối gieo vần khác nhau để tránh nhàm chán. Hình 1 cho thấy các
 vần trong mỗi đoạn. Trong một đoạn, các câu có cùng vần có 
cùng màu.
Ta thấy cách gieo vần như sau:
Đoạn 1: xen kẽ hoặc vần chéo (cũng có thể coi là cả bốn câu).
Đoạn 2: xen kẽ, nhưng chỉ cho hai câu.
Đoạn 3: cả bốn câu, và đều là không dấu.
Đoạn 4: xen kẽ, nhưng chỉ cho hai câu.
Đoạn 5: xen kẽ hoặc vần chéo.
Đoạn 6: cặp (liên tiếp), nhưng chỉ có hai câu đầu.
Đoạn 7: cặp (liên tiếp), nhưng chỉ có hai câu cuối (hoặc giữa).
Đoạn 8: xen kẽ hoặc vần chéo.
Đoạn 9: xen kẽ hoặc vần chéo.
Đoạn 10: cả bốn câu, và đều là không dấu.
Vần xen kẽ (hoặc vần chéo):
 Ta thấy Trần Thiện Thanh dùng loại gieo vần này trong đa số 
đoạn trong bài hát: sáu đoạn trong bài hát mười đoạn. Ngoài 
ra, hầu hết các vần là vần bằng. Chỉ có đoạn 5 là dùng một 
vần trắc ("mộng/ động").
 Lý do đơn giản là vần bằng nghe nhẹ nhàng và êm ả hơn vần 
trắc, nhất là trong ca khúc. Đa số các ca khúc dùng vần bằng. 
Thỉnh thoảng có vần trắc để thay đổi âm tiế́t và phù hợp với
 nhạc điệu. Nhưng vần trắc ít khi đứng một mình trong một đoạn,
 và thường có vần bằng đi kèm theo. Thí dụ:
Có ai xuôi vạn lý 
nhắn đôi câu giúp nàng, 
Lấy cây hương thật quý, 
thắp lên thương tiếc chàng.
(Hòn vọng phu 2 - Lê Thương)
Trong "Tình Thiên Thu," tác giả 
lựa chọn vần tinh vi, tỉ mỉ và ý nghĩa các vần có liên hệ 
mật thiết, không gượng gạo. Khi vần phù hợp cả thanh lẫn ý, 
sức diễn tả được gia tăng. Thí dụ: "cõi đời" và "giữa trời" 
trong đoạn 1; "xuân nồng" và "cuối đông" trong đoạn 5; "cũng tan" 
và chắn ngang" trong đoạn 8; "thiệp hồng" và "nhà chồng" trong 
đoạn 9.
Vần cặp, trong hai câu liên tiếp trong một cặp (couplet):
 Trần Thiện Thanh dùng loại gieo vần này trong đoạn 6 và đoạn 
7. Trong đoạn 6, chỉ có cặp đầu, còn cặp sau thì không vần. 
Trong đoạn 7, sẽ được trình bày riêng rẽ sau, chỉ có cặp cuối 
(thực ra là cặp giữa). Loại gieo vần này cũng rất thông dụng, 
nhất là trong các ca khúc Mỹ. Sau đây là vài thí dụ:
Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời 
Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời 
Đặt tên cho anh anh là Quốc 
Đặt tên cho anh anh là nước 
(Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc - Phạm Duy)
But February made me shiver
With every paper I'd deliver
Bad news on the doorstep
I couldn't take one more step
 (American Pie – Don McLean)
Lần nữa, tác giả chọn lọc vần
 cho hợp cả thanh lẫn ý. Thí dụ: "giao tranh" và "mong manh" 
trong đoạn 6; "ban mai" và "tương lai" trong đoạn 7b; "phương xa" và
 "đông qua" trong đoạn 7c. Ngoài ra, khác với lối thông thường 
gieo vần cho hai cặp trong một đoạn bốn câu như trong các thí dụ
 trên, ông chỉ gieo vần cho một cặp. Làm vậy, tác giả tránh sự
 nhàm chán hoặc máy móc, và tạo nét biến thái trong âm điệu.
Vần cặp trong ba câu (triplet):
 Đoạn 7 là một đoạn thật độc đáo trong cả bài. Trước hết, 
đoạn này là đoạn cuối của thân bài, và là cao đỉnh của câu 
chuyện. Như đã trình bày trên, các câu trong đoạn này đều có 
đúng 7 chữ. Với nhiều chữ hơn các đoạn khác, đoạn này cho tác
 giả kể lể nhiều hơn, và đem lại thay đổi cho tiết tấu. Phần 
này chia ra ba đoạn nhỏ (7a, 7b, 7c). Mỗi đoạn nhỏ có ba câu 
(triplet). Thực ra mỗi đoạn nhỏ có bốn câu, nhưng câu chót không 
có lời mà chỉ có nhạc với giai điệu y hệt như giai điệu của 
câu thứ ba. Mục đích của câu chót không lời là cho khoảng thời 
gian cho người nghe thấm lời, cho ca sĩ lấy hơi, và cho tác dụng
 thời gian cho câu chuyện. Đại khái, tác giả không muốn kể 
chuyện với những biến cố dồn dập liên tiếp nên dùng nhạc để 
tạo khoảng nghỉ, nhưng vẫn tiếp tục tiếng nhạc như là tiếng 
vang lại của lời.
Trong ba đoạn này, tác giả dùng
 vần trong hai câu liên tiếp như đã trình bày ở trên. Để ý là 
tác giả dùng vần có thanh không dấu ("sao/ đau, mai/ lai, xa/ qua"). Như sẽ trình bày sau, tác giả dùng giai điệu này để diễn tả sự êm ả, mơ hồ, nhẹ nhàng, không dứt khoát.
Đoạn 7, do đó, kể phần chính 
câu chuyện với giai điệu êm ái và không dồn dập, để dẫn đến 
câu quan trọng của câu chuyện. Đó là câu nàng chết: "Mà chết người gái nhỏ phương xa." Nhờ
 đã giàn dựng trước đó, cái tin đau thương không đến đột ngột, 
và được báo một cách nhẹ nhàng, theo sau bằng một câu cũng 
nhẹ nhàng ("Một xuân buồn có gió đông qua") và khoảng nhạc nghỉ.
Vần cho cả đoạn: Loại 
vần này gieo vần cho mỗi câu trong cả đoạn, bất chấp đoạn đó 
có bao nhiêu câu. Tác dụng của nó là giữ sự chú ý của người 
nghe trong suốt cả đoạn. Một ca khúc thường không nên dùng loại 
vần này quá nhiều vì dễ tạo nhàm chán. Nhưng khi được dùng 
khéo léo, loại vần này rất hiệu quả. Đoạn nhạc/ thơ có thể 
có số câu thông thường (4 câu), hoặc dài (6 tới 10 câu) và dùng 
cả vần không dấu và dấu huyền. Sau đây là vài thí dụ:
Ngày trở về, 
anh bước lê
Trên quãng đường đê 
đến bên lũy tre
Nắng vàng hoe, 
vườn rau trước hè 
cười đón người về
(Ngày Trở Về - Phạm Duy)
Ngựa phi ngoài xa hí vang trời, 
Chiêng trống khua trăm hồi, 
Ngần ngại trên núi đồi, 
Rồi vọng ra khắp nơi
Phía cách quan xa vời, 
chiêng trống khua trăm hồi, 
ngần ngại trên núi đồi, 
rồi dậy vang khắp nơi 
thắm bao niềm chia phôi
(Hòn Vọng Phu 1- Lê Thương)
So bye-bye, Miss American Pie
Drove my Chevy to the levee, but the levee was dry
And them good old boys were drinkin' whiskey in Rye
Singin' "This'll be the day that I die
This'll be the day that I die"
(American Pie – Don McLean)
Trở về với "Tình Thiên Thu," 
Trần Thiện Thanh chứng tỏ là một thiên tài trong việc dùng 
cùng một vần cho cả đoạn. Ông dùng trong đoạn 3 và đoạn 10. 
(Đoạn 1 có thể coi là bốn câu, nhưng không có cùng thanh không 
dấu.) Đoạn 3 là đoạn chót trong phần nhập đề và đoạn 10 là 
đoạn chót cho phần kết và cũng là cho cả bài hát. Vì vần cho
 cả đoạn tạo sự chú ý cho người nghe, tác giả dùng đoạn đó 
là dấu hiệu cho biết là đoạn cuối của phần đó. Ông cũng dùng
 nó như một khí cụ chuyển tiếp (transition) từ một phần sang 
phần khác. 
Điểm đặc sắc của cách gieo vần
 trong các đoạn này là lối dùng toàn là thanh không dấu, thay 
vì lẫn lộn thanh không dấu và thanh (dấu) huyền, hoặc toàn là 
thanh (dấu) huyền.
Có gì đặc sắc ở thanh không dấu?
Âm tiết tiếng Việt rất là thanh
 thót, trầm bổng, "du dương hòa điệu," "giống như bản nhạc liên 
hồi" (trích trong Đỗ 1972, 13; Cao-Đắc 2014a, 476-477). Alexandre de
 Rhodes đã phải thốt lên là người Việt nói chuyện với nhau nghe
 như chim hót, nhất là giữa phái nữ (sđd.,
 12). Với các dấu, tiếng Việt khi phát âm tạo ra các thanh tương
 ứng khác nhau. Ta có thanh không dấu, thanh huyền, thanh sắc, 
thanh hỏi, thanh ngã, và thanh nặng. Mỗi thanh có sự trầm bổng 
lên xuống khác nhau như người Việt nào cũng biết. Ta không rõ 
nguồn gốc của sáu thanh này, nhưng ta có thể đoán mỗi thanh có
 liên hệ đến tình cảm, ý tưởng, tâm trạng, cảnh tượng, năng 
lực của chữ đó. Đó là vì tiếng Việt là loại tiếng tình 
cảm, cả về nội dung lẫn hình thức (phát âm).
Thanh không dấu gợi âm thanh hoặc
 hình ảnh êm ái, nhẹ nhàng, thảnh thơi, yếu đuối, mơ hồ, cao 
quý, vương vấn, bao quát, dây dưa. Thí dụ: bao la, bâng khuâng, bi 
thương, bơ vơ, cô đơn, du dương, ̣đê mê, đong đưa, đơn sơ, hân hoan, 
hoang vu, lang thang, lênh đênh, lo âu, long đong, long lanh, lung linh,
 lưa thưa, mê man, mênh mông, miên man, mông lung, ngây ngô, ngu ngơ, 
nguy nga, phôi phai, thanh tao, thương tâm, trơn tru, van xin, vi vu, 
vinh quang, vu vơ, xa xôi, xanh xao, xôn xao.
Thanh huyền gợi âm thanh hoặc 
hình ảnh trầm trọng, buồn bã, dài dòng. Thí dụ: ầm ì, bàng 
hoàng, bầy nhầy, buồn rầu, cần cù, dần dà, đầm đìa, khề 
khà, khù khờ, lầm lì, lè nhè, lòng thòng, lừ đừ, màu mè, 
thều thào, thì thầm, rềnh ràng, rườm rà, rù rì.
Tôi sẽ không đi sâu thêm vào các 
thanh trắc, nhưng đại khái các thanh này liên kết với âm thanh 
hoặc hình ảnh mạnh bạo, sôi nổi, linh động, sắc bén, tương 
phản, thô kệch, chi tiết, nghiêm nghị, mau lẹ. Thí dụ: ấm ức, 
háo hức, lách tách, lúc nhúc, mất mát, trống vắng, thánh 
thót, thích thú, thiếu thốn, tức tối, bẩn thỉu, hổn hển, 
khẩn khoản, lẩm cẩm, lẩy bẩy, lổn ngổn, lởm chởm, rủng rỉnh,
 tỉ mỉ, ủn ỉn, bỡ ngỡ, lẫm chẫm, lõm bõm, ngẫm nghĩ, vĩnh 
viễn, cực nhọc, luộm thuộm, rậm rạp, trịnh trọng, thịnh 
vượng.
Khi các thanh được kết hợp, tác
 dụng của chúng cũng được kết hợp. Thí dụ: "lo âu" chỉ trạng 
thái "lo" về chuyện gì đó một cách âm ỉ, chung chung, không rõ 
rệt, nhưng "lo lắng" chỉ một mối "lo" mạnh hơn và rõ rệt hơn; 
"hân hoan" chỉ một niềm vui tổng quát rộng rãi; "hoan hỉ" chỉ 
một niềm vui chật hẹp, đặc thù, và rõ rệt; "thanh tao" chỉ 
nét quý phái tổng quát; "thanh nhã" chỉ nét đẹp đặc thù của 
cử chỉ, dáng điệu; "buồn rầu" chỉ nỗi buồn tổng quát; "rầu 
rĩ" nhấn mạnh nỗi buồn đó.
Trở về với âm nhạc, giai điệu 
cho vần có thanh không dấu khiến người nghe cảm thấy nỗi niềm 
vương vấn, bâng khuâng, quyến luyến, chưa có gì dứt khoát, và 
muốn được biết thêm.
Trần Thiện Thanh sắp xếp giai 
điệu để đặt vần có thanh không dấu tại vị trí tốt nhất: cuối
 phần nhập đề (đoạn 3) và cuối phần kết, cũng là cuối bài 
(đoạn 10). Ta có thể hiểu dễ dàng cái hiệu quả ở cuối phần 
nhập đề, vì tác giả muốn tạo cảm giác vương vấn cho người 
nghe khiến người nghe muốn biết thêm. Các vần được lựa chọn 
tinh vi: "thê lương," "yêu đương," "ghen tuông," "trót thương." Không 
những chuẩn (tuy "tuông" có chút xíu lạc), ý nghĩa các vần 
này liên hệ thật chặt chẽ: tình yêu nào cũng có "trót" thương,
 ghen tuông, và, trong trường hợp câu chuyện này, dẫn đến thê 
lương.
Nhưng tạo cảm giác đó ở cuối 
bài mới thật là tuyệt diệu và chỉ có bậc thầy như Trần 
Thiện Thanh mới làm được chuyện đó. Tại sao? Thông thường, cuối
 bài hát là kể hết câu chuyện, đâu còn gì nữa mà vương vấn, 
tò mò? Tuy nhiên, tác giả không muốn khán giả chấm dứt câu 
chuyện, và muốn tạo cảm giác ngân vang trong tâm trí về câu 
chuyện. Đó là chỉ mới về âm thanh mà thôi. Với cách dùng chữ 
và lựa chọn từ ngữ tỉ mỉ, Trần Thiện Thanh khiến người nghe 
phải bịn rịn, lưu luyến, ngẩn ngơ với câu chuyện cho dù câu 
chuyện đã chấm dứt.
Ta hãy nghe lại đoạn chót:
Chàng thề không còn yêu ai 
dẫu cho ngày tháng phôi phai 
Nhiều lần chàng mộng liêu trai
Nàng hẹn chàng kiếp mai.
Với các cặp chữ "yêu ai," "phôi 
phai," "liêu trai," "kiếp mai," tác giả cho thấy mối tình thiên 
thu. Một lần nữa, không những vần chuẩn mà ý nghĩa còn liên 
hệ mật thiết. Ý nghĩa của "không còn yêu ai,"
 "phôi phai," "liêu trai," và "kiếp mai" cho thấy cái gì huyền 
bí, chưa dứt khoát, còn trong tương lai. Cộng với cái ý nghĩa 
"thiên thu" đó, thanh không dấu tạo nên cảm xúc quyến luyến, 
trông chờ. Nhưng không phải chỉ có thanh không dấu mà thôi. Các 
thanh không dấu này liên kết nhau qua vần (ai, phai, trai, mai) cho thấy tác giả quyết tâm để âm tiết này vang vang trong đầu người nghe để tạo ấn tượng lâu dài. 
Ngoài ra, thanh không dấu làm dễ
 dàng kéo dài âm thanh một chữ/ tiếng mà không bị mất âm tiết.
 Bạn có thể kéo dài tiếng "ai" cả phút mà không làm mất âm 
tiết. Nhưng bạn không thể làm chuyện đó dễ dàng với "ài," 
"ái", "ải," "ãi," và "ại." Trong "Tình Thiên Thu," chữ "thương" 
ở đoạn 3 và chữ "mai" ở đoạn 10 có dấu lưu (trong tờ nhạc), 
nghĩa là chữ đó có thể kéo dài bao lâu cũng được. Chỉ có 
thanh không dấu mới kéo dài dễ dàng. Tại sao kéo dài? Vì tác 
giả muốn giữ âm tiết trong tâm trí khán giả để họ vương vấn 
với câu chuyện. Đó là lý do tại sao nhiều bản nhạc Việt Nam 
đều tận cùng bẳng thanh không dấu để ca sĩ có thể kéo dài 
tùy ý.
Bằng cách dùng vần cho cả đoạn
 và thanh không dấu, và vị trí cuối phần nhập đề vả cuối 
bài, Trần Thiện Thanh giữ người nghe chú ý trong cả bài và 
ngay cả khi bài chấm dứt. Nhiều khi, người nghe muốn nghe đi nghe
 lại bài hát chỉ vì hai đoạn 3 và 10 này.
Nói tóm lại, Trần Thiện Thanh 
viết giai điệu nhạc là khuôn khổ cho các đoạn thơ có những vần
 được sắp đặt một cách truyền cảm, tạo nên giai điệu du dương, 
có tác dụng linh động, và giúp tạo nên nỗi niềm bịn rịn, lưu 
luyến, ngẩn ngơ cho người nghe. Tác dụng này còn được tăng 
cường hơn qua cách dùng từ ngữ gợi hình và gây cảm xúc. Do 
đó, tuy câu chuyện đơn giản và không có tình tiết éo le, cách 
dùng vần điệu và giàn dựng tiết tấu giúp toàn thể bài hát 
diễn tả mối tình thiên thu thật tuyệt vời.
A. Kết Luận:
Ca khúc "Tình Thiên Thu" là một 
bài ballad có nội dung và hình thức theo truyền thống. Trần 
Thiện Thanh kể câu chuyện tình buồn với bố cục chặt chẽ và 
mạch lạc. Cái ý chính về ước mơ bình thường không được trọn 
vẹn được diễn tả hiệu nghiệm qua lối "kể, không cho thấy" giúp
 người nghe thấu hiểu câu chuyện dễ dàng. Cộng thêm với cách 
thức dùng vần điệu chọn lọc và tinh vi, tác giả tạo nên tác 
dụng quyến luyến ngẩn ngơ cho người nghe.
Tuy các nhân vật trong câu chuyện
 không có thật hoàn toàn, một phần tình tiết thể hiện thực 
trạng của những chuyện tình trong chiến tranh.
 Do đó bài hát 
phản ảnh trung thực tình trạng xã hội của miền Nam Việt Nam 
trước 1975. Ngoài ra, mặc dù cái chết của cô gái trong chuyện 
là do bởi chiến tranh, bài hát không hề trách móc hoặc nguyền 
rủa kẻ tạo ra tang tóc chia ly
. Đó là tính chất nhân bản vị 
tha của người miền Nam Việt Nam không cộng sản.
CẢM TẠ
Tài Liệu Tham Khảo:
Batema, Cara. Không rõ ngày. Lyrical Poems vs. Ballads. http://education.seattlepi.com/lyrical-poems-vs-ballads-5500.html (truy cập 8-11-2014).
Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
_______. 2014b. " Hồn lỡ sa vào đôi mắt em". 6-8-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/hon-lo-sa-vao-oi-mat-em.html (truy cập 13-8-2014).
_______. 2014c. Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/nhung-lua-ao-lich-su-cua-ho-chi-minh-va.html (truy cập 16-11-2014). 
Đỗ Quang Chính. 1972. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659. Tủ sách Ra Khơi, Sài gòn, Việt Nam.
Nguyễn Phán. Không rõ ngày. An Lộc một lần tôi đã đến, một lần để nhớ. http://www.bietdongquan.com/baochi/munau/so41/anloacmotlantoiden.htm (truy cập 9-11-2014).
Nhạc Việt trước 75. Không rõ ngày. Tình thiên thu của Nguyễn Thị Mộng Thường (Trần Thiện Thanh). http://amnhacmiennam.blogspot.com/2013/07/tinh-thien-thu-cua-nguyen-thi-mong.html (truy cập 15-11-2014).
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Không rõ ngày. Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khoá 24. http://khoa24.vobidalat.net/danhsach.html (truy cập 9-11-2014).
Wikipedia. 2014a. Trần Thiện Thanh. 
Thay đổi chót: 22-10-2014. 
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Thi%E1%BB%87n_Thanh (truy cập
 13-11-2014).
_______. 2014b. Ballad. Thay đổi chót: 28-10-2014. http://en.wikipedia.org/wiki/Ballad (truy cập 8-11-2014).
 


 
No comments:
Post a Comment