Người Quốc gia phải hợp tác với Tây là chuyện nhất thời vì thấy rằng
còn có một thứ kẻ thù nguy hiểm, độc ác, tàn bạo, gian manh gấp bội phần
chế độ thực dân Pháp.
Và chắc chắn cuộc sống ở nơi đây không phải là bị đầy đọa như đi kinh tế mới thời cộng sản.
Triều đình nhà Nguyễn đã xây dựng được bao nhiêu cơ sở hạ tầng như
đường xá, giao thông trên sông ngòi, bao nhiêu cầu cống, xây dựng được
bao nhiêu tỉnh thành, bao nhiêu trường học, bao nhiêu cơ sở y tế, bao
nhiêu cơ sở xã hội, bao nhiêu nhà máy, bao nhiêu cơ sở kỹ nghệ, bao
nhiêu công ty, bao nhiêu đồn điền, bao nhiêu chương trình dẫn thủy nhập
điền?
Phạm Văn Đồng đến Singapore gặp Lý Quang Diệu (1978). Nguồn: kinhnghiemsingapore.wordpress.com
Khẩu hiệu trên hầu như mọi người đều hầu như thuộc lòng đến
không còn tra vấn gì nữa. Cộng thêm sự tuyên truyền của cộng sản hùa
vào.
Trước 1975, có một bài hát của Trịnh Công Sơn (TCS), Gia tài của mẹ, do Khánh Ly hát thấm đẫm tình tự dân tộc, nói lên tâm trạng tủi nhục của người dân trong một nước nhược tiểu.
Bài hát với nội dung như sau:
“Một ngàn năm nô lệ giặcTầu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngăy
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ một nước Việt buồn…”
Tuy nhiên, bên cạnh tiếng nói thốt lên từ bom đạn của một người nghệ
sĩ, còn có tiếng nói của lịch sử, và lịch sử có tiếng nói riêng của nó,
và đó là trọng tâm của bài viết này.
Nhật báo Người Việt mở mục “70 Năm Di Cư (1954-2024)” nhằm kỷ
niệm biến cố sau khi Hiệp Định Genève có hiệu lực (21 Tháng Bảy, 1954)
hàng triệu người từ miền Bắc di cư vào miền Nam theo tiếng gọi của Tự
Do.
Mạnh Kim
Khi mẹ mang bầu tôi thì ông nội tôi mất. Những gì liên quan cuộc ra
đi lịch sử của gia đình ông tôi khi di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, tôi
chỉ biết qua sách sử…
Có điều tôi chắc chắn rằng việc ông nội tôi quyết định đưa cả nhà vào
Nam là để chạy trốn cộng sản vì sớm nhìn thấy bộ mặt đạo đức giả của
Việt Minh cộng sản. Bố tôi từng kể như vậy. Ông nội tôi, như đa số người
Bắc di cư 1954, là không đội trời chung với cộng sản. Khi vào Nam, một
trong những nơi đầu tiên mà ông lập nghiệp, cùng bà vợ trẻ và đàn con
nheo nhóc gần 10 người, là Tây Ninh. Sau đó ông đưa cả nhà về Phú Nhuận.
Đến khi tôi trưởng thành, căn nhà gỗ một tầng mà ông dựng lên vẫn còn
và đó vẫn là nơi mà con cháu luôn tề tựu mỗi năm vài lần, vào dịp Tết
nhất và dịp giỗ ông.
Lúc còn sống, bà nội kể với tôi, khi ông bà dọn về đây, trước 1975
gọi là đường Nguyễn Huệ và sau 1975 đổi thành Thích Quảng Đức, khu vực
này vẫn còn hoang vắng. Chung quanh đều là rừng. Cỏ lau ngập đầu người.
Thú hoang vẫn còn đầy khắp. Tối ngủ có khi còn nghe cọp rống. Lưa thưa
mới có vài căn nhà. Hầu hết là dân Bắc di cư 54 cả. Nhắc đến bà, tôi nhớ
như in hình ảnh một bà nông dân Bắc Bộ truyền thống. Răng nhuộm đen,
nhai trầu bỏm bẻm, chít khăn mỏ quạ…
Người di cư từ miền Bắc chờ lên tàu để di cư vào Nam, bắt đầu hành trình tìm tự do ở Sài Gòn, năm 1954. (Hình: US Navy Archive)
Nhà văn Nguyễn Viện là một trong những trí thức thuộc gia đình từ
miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Ông sống và sáng tác, cắm rễ vào đất
miền Nam, và hòa mình vào nền văn hóa nghệ thuật tự do như nhiều văn
nghệ sĩ cập bến Sài Gòn 1954. Kỷ niệm 70 năm hành trình người Bắc di cư
vào Nam, ông có cuộc trò chuyện để nhắc về giới trí thức tinh hoa đã góp
sức xây dựng nên một di sản văn hóa độc đáo, cũng như ảnh hưởng của nó
hôm qua, và mai sau.
Không còn nhớ ai là người đầu tiên dịch “Gone with the wind” thành “Cuốn theo chiều gió” nhưng vị nào dịch câu này hẳn nhiên là bậc thượng thừa về ngôn ngữ nói chung và rất giỏi tiếng Việt nói riêng.
Ông Huỳnh Phan Anh cũng khắc tên mình vào bảng mạ vàng khi dịch “For whom the bell tolls” thành “Chuông nguyện hồn ai” (phải là “nguyện”, chứ không phải “gọi” – như các bản dịch sau 1975, nghe mới “đã” và mới đúng với ý như câu chuyện của tác phẩm Hemingway).
“Tàu Há Mồm” đón người di cư từ miền Bắc vào miền Nam. (Hình: Naval History and Heritage Command)
Nếu không có sự kiện di cư 1954, miền Nam và nền văn hóa miền Nam tự
do sẽ không thể có những tên tuổi Phạm Duy, Chu Tử, Du Tử Lê, Nguyễn
Mạnh Côn, Duyên Anh, Nguyễn Hiến Lê, Nhật Tiến, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ
Hoàng Chương, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Mặc Đỗ, Mai Thảo…
Nói cách
khác, nếu những nhân vật này không di cư vào Nam, cuộc đời và số phận họ
sẽ chìm trong bóng tối địa ngục cộng sản và văn hóa Việt Nam nói chung
sẽ chịu những tổn thất không thể đo đếm được bằng bất kỳ gì…
Màn đêm bên kia vĩ tuyến
Sự khác biệt giữa văn hóa cộng sản của miền Bắc và văn hóa tự do sáng
tạo của miền Nam là một trời một vực. Trong quyển “Những phản ảnh xã
hội và chính trị trong tiểu thuyết miền Bắc 1950-1967” (NXB Phong Trào
Văn Hóa, Sài Gòn 1969), Tiến Sĩ Sử Học Hoàng Ngọc Thành thuật:
Bác Sĩ Tom Dooley (1927-1961) và một trẻ em ở Đông Dương, hình chụp năm 1954. (Hình: Hulton Archive/Getty Images)
Nói đến sự kiện di cư 1954, có nhiều nhân vật lịch sử, người Việt lẫn
nước người, cần được nhắc, trong đó không thể không kể Tom Dooley,
người được xem là ân nhân của người Việt vào thời điểm lịch sử hỗn loạn
1954.
Tom Dooley đã được nhắc trong quyển “Việt Nam 1954-1995” của Giáo Sư
Lê Xuân Khoa và cả trong quyển “Khi đồng minh nhảy vào” của ông Nguyễn
Tiến Hưng. Suốt từ giữa đến cuối thập niên 1950, Quân Y Sĩ Tom Dooley
(tức Thomas Anthony Dooley III) là hình ảnh hiện thân lòng bác ái. Hỗ
trợ y tế nhân đạo của ông ở các vùng nông thôn Việt Nam trong thời kỳ
đầu người Mỹ nhảy vào Đông Nam Á đã được ca ngợi hết lời. Tom Dooley đã
được Tổng thống John F. Kennedy trao Huân Chương Vàng Quốc Hội
(Congressional Gold Medal).