Monday, November 4, 2024

Friday, November 1, 2024

Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ - Ngọn Cờ Đại Nghĩa : Biểu tượng chính thống dòng sinh mệnh dân tộc

Tập đoàn Cộng sản Hà Nội đã tráo trở áp đặt một cách bịp bợm rằng quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là lá cờ của các chế độ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam để rồi vin vào cớ đó mà chỉ thị cho các tên trùm Việt cộng khát máu trong cái Tòa Đại sứ, Toà Lãnh Sự CH/XHCN/VN trên đất Mỹ trỗ tài luồn ngõ trước, lách ngõ sau, van xin lạy lục các vị Giám sát Hội đồng thành phố San Francisco, các Nghị viên Hội đồng thành phố Boston...và nhiều nơi khác để xin rút lại các nghị quyết công nhận cờ Vàng ba sọc đỏ là biểu tượng truyền thống tự do, dân chủ của khối người Việt quốc gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại.

     Một hiện tượng lạ lùng và buồn cười đã và đang xảy ra như vậy mà từ xưa đến nay chưa bao giờ có trên một đất nước nào, cái mà người ta gọi là một Chính phủ có đất, có dân để cai trị, có bang giao các nước, có quốc kỳ, vậy mà lá cờ máu màu đỏ sao vàng không được phép hay không được quyền treo tại bất cứ nơi nào, ở đâu, và lúc nào trên quốc gia có bang giao, mà chỉ thấy lèo tèo, lấp ló, thậm thụt trên đầu ngón tay ở những chỗ các tên VC khát máu trú ngụ. 

Trong lúc ấy thì ngọn cờ đại nghĩa, chính thống nền vàng ba sọc đỏ vẫn ngạo nghễ tung bay trên lảnh thổ các tiểu bang Hoa kỳ, trên khắp vòm trời thế giới và một ngày không xa lắm sẽ tái chiếm vùng trời đất Mẹ Việt Nam.    *-

TT Ngô Đình Diệm - Một Nuối Tiếc Ngàn Đời của Dân Việt

TT Ngô Đình Diệm - Một Nuối Tiếc Ngàn Đời của Dân Việt - 31/10/2023 _ Lm Micae Phạm Quang Hồng

Friday, August 23, 2024

1000 năm chống Tầu, 100 đô hộ Tây: Thực chất và huyền thoại (phần 2)

 

 

Phổ Nghi, Hoàng Đế sau cùng của Trung Hoa. Nguồn: telegraph.co.uk 

 Tiếp theo phần 1

Người Quốc gia phải hợp tác với Tây là chuyện nhất thời vì thấy rằng còn có một thứ kẻ thù nguy hiểm, độc ác, tàn bạo, gian manh gấp bội phần chế độ thực dân Pháp.

Và chắc chắn cuộc sống ở nơi đây không phải là bị đầy đọa như đi kinh tế mới thời cộng sản.

Triều đình nhà Nguyễn đã xây dựng được bao nhiêu cơ sở hạ tầng như đường xá, giao thông trên sông ngòi, bao nhiêu cầu cống, xây dựng được bao nhiêu tỉnh thành, bao nhiêu trường học, bao nhiêu cơ sở y tế, bao nhiêu cơ sở xã hội, bao nhiêu nhà máy, bao nhiêu cơ sở kỹ nghệ, bao nhiêu công ty, bao nhiêu đồn điền, bao nhiêu chương trình dẫn thủy nhập điền?

1000 năm nô lệ giặc Tàu, 100 đô hộ giặc Tây: Thực chất và huyền thoại (phần 1)

 

Phạm Văn Đồng đến Singapore gặp Lý Quang Diệu (1978). Nguồn: kinhnghiemsingapore.wordpress.com

Khẩu hiệu trên hầu như mọi người đều hầu như thuộc lòng đến không còn tra vấn gì nữa. Cộng thêm sự tuyên truyền của cộng sản hùa vào.

Trước 1975, có một bài hát của Trịnh Công Sơn (TCS), Gia tài của mẹ, do Khánh Ly hát thấm đẫm tình tự dân tộc, nói lên tâm trạng tủi nhục của người dân trong một nước nhược tiểu.

Bài hát với nội dung như sau:

Một ngàn năm nô lệ giặcTầu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngăy
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ một nước Việt buồn…”

Tuy nhiên, bên cạnh tiếng nói thốt lên từ bom đạn của một người nghệ sĩ, còn có tiếng nói của lịch sử, và lịch sử có tiếng nói riêng của nó, và đó là trọng tâm của bài viết này.

Saturday, August 3, 2024

70 Năm Di Cư (1954-2024) : Bắc kỳ và Nam kỳ ( Bài 4 )

Nhật báo Người Việt mở mục “70 Năm Di Cư (1954-2024)” nhằm kỷ niệm biến cố sau khi Hiệp Định Genève có hiệu lực (21 Tháng Bảy, 1954) hàng triệu người từ miền Bắc di cư vào miền Nam theo tiếng gọi của Tự Do.

Mạnh Kim

Dòng người di cư miền Bắc đang được thủy thủ Mỹ gắn thẻ lên tàu để lên đường 
vào miền Nam. (Hình: Naval History and Heritage Command)

Khi mẹ mang bầu tôi thì ông nội tôi mất. Những gì liên quan cuộc ra đi lịch sử của gia đình ông tôi khi di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, tôi chỉ biết qua sách sử…

Có điều tôi chắc chắn rằng việc ông nội tôi quyết định đưa cả nhà vào Nam là để chạy trốn cộng sản vì sớm nhìn thấy bộ mặt đạo đức giả của Việt Minh cộng sản. Bố tôi từng kể như vậy. Ông nội tôi, như đa số người Bắc di cư 1954, là không đội trời chung với cộng sản. Khi vào Nam, một trong những nơi đầu tiên mà ông lập nghiệp, cùng bà vợ trẻ và đàn con nheo nhóc gần 10 người, là Tây Ninh. Sau đó ông đưa cả nhà về Phú Nhuận. Đến khi tôi trưởng thành, căn nhà gỗ một tầng mà ông dựng lên vẫn còn và đó vẫn là nơi mà con cháu luôn tề tựu mỗi năm vài lần, vào dịp Tết nhất và dịp giỗ ông.

Lúc còn sống, bà nội kể với tôi, khi ông bà dọn về đây, trước 1975 gọi là đường Nguyễn Huệ và sau 1975 đổi thành Thích Quảng Đức, khu vực này vẫn còn hoang vắng. Chung quanh đều là rừng. Cỏ lau ngập đầu người. Thú hoang vẫn còn đầy khắp. Tối ngủ có khi còn nghe cọp rống. Lưa thưa mới có vài căn nhà. Hầu hết là dân Bắc di cư 54 cả. Nhắc đến bà, tôi nhớ như in hình ảnh một bà nông dân Bắc Bộ truyền thống. Răng nhuộm đen, nhai trầu bỏm bẻm, chít khăn mỏ quạ…

Saturday, July 27, 2024

Nhà văn Nguyễn Viện: ‘Di sản văn hóa miền Nam là lửa, và sẽ mãi phát sáng!’


 Người di cư từ miền Bắc chờ lên tàu để di cư vào Nam, bắt đầu hành trình tìm tự do ở Sài Gòn, năm 1954. (Hình: US Navy Archive)

 Nhà văn Nguyễn Viện là một trong những trí thức thuộc gia đình từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Ông sống và sáng tác, cắm rễ vào đất miền Nam, và hòa mình vào nền văn hóa nghệ thuật tự do như nhiều văn nghệ sĩ cập bến Sài Gòn 1954. Kỷ niệm 70 năm hành trình người Bắc di cư vào Nam, ông có cuộc trò chuyện để nhắc về giới trí thức tinh hoa đã góp sức xây dựng nên một di sản văn hóa độc đáo, cũng như ảnh hưởng của nó hôm qua, và mai sau.