Friday, May 9, 2025

𝐌ột cuộc bể dâu 𝟑𝟎/𝟒/𝟏𝟗𝟕𝟓 – 𝐊𝐡𝐢 𝐌à𝐧 Đê𝐦 𝐊𝐡ủ𝐧𝐠 𝐁ố 𝐏𝐡ủ 𝐗𝐮ố𝐧𝐠 𝐌𝐢ề𝐧 𝐍𝐚𝐦 𝐕𝐢ệ𝐭 𝐍𝐚𝐦

- Cảnh sống/chết đọa đày của Gia Đình Thương Phế Binh VNCH
  
 Đây, lời kể của chứng nhân Bùi Anh Sáu về lần “Ghetto, Làng Phế Binh Thủ Đức” bị bọn cộng sản bắc việt man rợ vô nhân tính triệt hạ: “Ba giờ sáng ngày 1 tháng 7, 1975, Làng Phế Binh Rạch Chiếc Thủ Đức bị đánh động, vây chặt bởi một bầy bộ đội thổ phỉ đông đúc có cả xe tăng yểm trợ.
 
Một đoàn xe chờ sẵn để dồn mọi người lên vùng kinh tế mới Sông Bé (Phước Long cũ)... Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết? 
  Sông Bé ở đâu, người người bàn tán xôn xao. Trẻ nít khóc rân, người lớn nháo nhác hốt hoảng dồn đồ đạc, áo quần dưới ánh sáng luồn sục, thúc giục của đèn xe và đèn pin và lời quát tháo chửi mắng của lũ phỉ quân bắc việt ngu dốt, vô giáo dục, vô văn hóa “Chúng mầy là gia đình bọn ngụy quân, lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân, chúng mầy không được quyền ở đây, phải trả lại tài sản cho nhà nước và nhân dân!”
 “Chen trong chuỗi la ó hỗn loạn kia có những âm thanh nổ bùng, sắc gọn sau tiếng la hét uất hận... Những thương phế binh tự sát cùng với gia đình, từ chối lên vùng kinh tế mới. Đến sáng, toàn khu làng phế binh ngày thường sầm uất nhộp nhịp nay vắng hoe, heo hút những đám cháy nhỏ gồm những vật gia dụng bộ đội không cho đem theo; chỉ còn những đơn vị bộ đội đứng gác và các toán đi lại, vào từng nhà kiểm kê. Một đoàn xe khác từ Sài Gòn đến, sau khi đã chất đầy những đồ đạc để sẵn ngoài sân, phủ bạt kín, chạy ra xa lộ, hướng về phía Bắc.”
 
Gần một năm sau, tất cả những gia đình đi kinh tế mới ở Sông Bé đồng trở về vì không chịu đựng nổi cảnh sống quá cực khổ ở vùng núi rừng hiu quạnh. Có gia đình về không đủ như lúc ra đi vì đã để lại thân xác nơi rừng sâu; có gia đình thì đông hơn trẻ nít, nhưng tất cả đều ốm yếu, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chốc. Họ không còn nhà, nên thường cất những chòi bằng giấy cứng quanh nghĩa địa. Người sống và người chết chen nhau.
 
Vào ngày nắng gắt hoặc mưa giông, nghĩa địa bốc mùi tanh nồng nặc, dần dần ai nấy đều có nước da tai tái như người chết. Nhà cửa khu trại gia binh bị trưng thu, vùng kinh tế mới sống không nỗi, lấy nghĩa địa làm nhà, lề đường là vùng sinh sống, đám dân cùng khổ biến thành “tệ đoan xã hội”, đối tượng của chính sách dồn ép và quét sạch để “làm đẹp tổ quốc giàu, mạnh, xứng đáng thành phố mang tên bác kính yêu.”
 
Chúng ta nghe tiếp lời của phế binh Bất Hạnh, hiện ngụ tại Khánh Hội, Sài Gòn: “Những cuộc truy quyét thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động, dài theo đường phố Sài Gòn, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân bị công an quăng đầy lên xe cây: cây dù, tủ thuốc lá, xe xay nước trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh tráng...
 
Chưa hết, bên cạnh những chuyến xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe bít bùng chở đầy người già, trẻ nít, người tàn tật, những bà mẹ cùng những đám con thơ nheo nhó đỏ hỏn bế trên tay... Tất cả đồng đưa về trại tập trung về tội “lấn chiếm lề đường.”
Này đây, một cuộc bố ráp điển hình ở Khu Hàng Xanh: “Tôi (Bất Hạnh) không may lọt ổ phục kích, chưa biết phải làm gì trước tình huống thì một xe công an từ đâu phía sau chạy tới, một tên nhảy xuống, giật thùng đồ nghề (vá xe) quăng lên xe. Thế là trắng tay! Làm sao để sống đây hở trời?
 
Những nơi khác, quanh Ngã Tư, tiếng la hét, khóc than vang lên tới tấp. Một chị phụ nữ la thất thanh, chị đang giằng co với một tên công an vô nhân tính thúng trái cây, bên cạnh bên chị, hai cháu bé, đứa khoảng 5 tuổi, đứa chừng 3 tuổi bò lăn trên những trái mận, ổi, khóc vang khi thấy mẹ bị tên công an đá quay lông lốc...”
 
Đối mặt với một chính sách diệt chủng
Sáng ngày 1 tháng 5, 1975, một địa ngục có thật mở ra trên Miền Nam, càng đậm sắc với những người tàn phế ở các quân y viện... Một toán Việt cộng tiến vào Bệnh Viện 3 Dã Chiến buộc chúng tôi rời viện ngay tức khắc. Bọn người này chưởi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc v.v...
Phản quốc nào, quê hương Miền Nam của chúng tôi bị bọn chúng xâm chiếm và ăn cướp. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn Nga, Tàu gây thương vong. 
  Những tên mọi rợ “nón cối” vô giáo dục nầy đại diện cho ai mà dám láo xược la hét: “Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy chúng mầy không được nằm tại đây. Đồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước!”

Chúng tôi người này đỡ người kia khập khễnh ra khỏi trại, có những chiến hữu vết thương đang rỉ máu bị vất trần truồng tênh hênh trên lề đường... Gia đình mừng rỡ thấy tôi trở về, nhưng trong hoàn cảnh này ai cũng lo âu cho tương lai của mình.
 
Hằng ngày tôi thấy trước mặt từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà kho. Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ dưới chân cầu Tân Thuận bị bọn bộ đội nón cối man rợ xả súng bắn thẳng không thương tiếc... Nhiều người giãy giụa dưới đất, trong vũng máu. Dân chúng chạy tản trốn, nhưng vài phút sau họ lại tràn vào đông hơn, bất kể súng đạn, ai bị thì té xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa...
 
Khi những ngày hỗn loạn đầu tháng 5, 1975 qua đi, những thùng đồ hộp bọn em đem về dần cạn, người phế binh phải ra đường kiếm sống với những “nghề cứu đói”, vá lốp xe đạp, sửa hộp quẹt gaz, bán nhang...
Và cuối cùng, đi xin ăn. Nhưng tất cả không thể kéo dài khi tên Ba Nhiệm làm trưởng ban “Truy quét tệ nạn xã hội” với một bộ phận kinh hoàng, “Nhà nuôi Thị Nghè” được dựng nên để làm địa điểm chuyển tiếp giải quyết tất cả những đối tượng đang sinh sống trên, với vỉa hè, số lượng này càng tăng vọt khi tiếp nhận thêm hàng vạn người từ miền Bắc túng đói tràn vào...
 
Tuy gọi là “nhà nuôi” nhưng thật ra nơi đó là nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là “tội phạm hình sự,” do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên. “Tội phạm” là những người bị bắt trong các đợt bố ráp lề đường, họ không có quyền khiếu nại là bị bắt trái phép hay không và cũng không có án phạt rõ ràng; thời gian ở đây được coi như để “nuôi dạy” nên không hạn định thời hạn giam giữ, nhiều người đã ở lại đây vĩnh viễn.
Mỗi nhà nuôi có có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 thước vuông, với khoảng chừng 100 con người bị giam. Tối tối mọi người phải thay nhau chỗ nằm và ngồi quạt cho nhau. Sáng khi nghe kẻng điểm danh, người nầy gọi người kia, ai nằm im không cục cựa thì đem đi hỏa thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo. Người sống thì đi lao động, kể cả người tàn tật, mù hai mắt, cụt tay, chân.
Nếu sống sót từ các “nhà nuôi,” trở về lại Sài Gòn, tình cảnh cũng chẳng sáng sủa hơn và cuối cùng tất cả đồng “chọn” một biện pháp “không còn chọn lựa”... Hoàng Thụy và Sơn, hai phế binh do quá kiệt sức vì bệnh lao và cụt hai chân nên được ra khỏi “nhà nuôi số 4” Phú Giăng, Sông Bé. Họ không dám đi ăn xin, chỉ “xin ăn” lại từ những người sống trong nghĩa địa.
 
Một buổi chiều, hai anh ra bến Bạch Đằng, ngước mắt nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo một hồi lâu rồi nắm tay nhau nhảy xuống dòng nước chảy xiếc. Xác hai anh được vớt lên, cha anh Sơn đang bán bánh ú, bánh tét quanh chợ Bến Thành hay tin, đến nhìn xác con. Nhưng ông chỉ im lặng đứng chung với đám người hiếu kỳ, không dám nhận là thân nhân người xấu số vì không có tiền mai táng con mình. Ông đứng thẫn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc.
Hoàng Thụy và Sơn không chết một mình, những người lính tàn phế lần lượt “chọn” cho mình những phương tiện và thời điểm thích hợp... Anh Thơm khi ngồi dưới chân cầu Sài Gòn, gần Ngân Hàng Quốc Gia có suy nghĩ rằng, do vợ chồng anh thiếu quan tâm nên đứa nhỏ con anh mới chết vì suy dinh dưỡng; mẹ nó đang “đi khách” ngoài chợ Bến Thành để dồn tiền cho anh làm vốn đi bán nhang... Anh quá mệt mỏi để nghĩ tiếp...
 
Cuối cùng, anh mở hai tuýp thuốc ngủ trút hết vào miệng, bị say thuốc, anh ọc mửa đầy hết áo quần, xong dẫy mấy cái và ngủ luôn dưới chân cầu. Lộc “què” mắc bệnh ho lao, thắt cổ chết trong một toa xe lửa bỏ hoang ở Biên Hòa. Quý “Đốc-tưa Zivago” không nuôi nổi mẹ già 80 tuổi, bất lực nhìn mẹ hằng ngày cầm lon ra chợ xin thức ăn nuôi thân và nuôi con, nên thắt cổ chết lè cả lưỡi ra. Thanh “liệt” thì mài dao tự cắt cổ, cứa mãi không đứt vì sợ đau, đâm bực mình liền chĩa mũi dao đâm cái phọt vào tim...
Nhưng trong những thân thể thương tật kia, ý chí chiến đấu của người lính không hề tàn lụi, họ vẫn giữ nguyên bản lĩnh kiêu hãnh của một quân đội, một đơn vị hằng tạo dựng những chiến tích lừng lẫy, cho dù hành động phản ứng tuyệt vọng bi tráng của họ chắc chắn sẽ đưa đến hậu quả khốc hại cuối cùng với cái chết ghê rợn nhẫn tâm...
 
Câu chuyện sau đây của phế binh Khát Vọng, hiện ngụ tại Long Hải, Phước Tuy có thể dùng để tạm kết về buổi thụ nạn đau thương của Thương Phế Binh QLVNCH với tất cả bi hùng mà chỉ người trong cuộc mới có thể viết nên, kể lại: 
 
Khu chính trị trại Xuân Lộc, Long Khánh thường xẩy ra nhiều chuyện đau buồn.
Anh Trần Văn Được, Trung Sĩ Nhất Thủy Quân Lục Chiến, cụt một chân và mù một mắt trong trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị, Mùa hè 1972 bị bắt chung với Trung Úy Phạm Tấn Dũng, binh chủng Nhảy Dù, bị thương năm 1974 trong trận tái chiếm đồi 1062, Thường Đức, Quảng Nam vì tội “hội họp bất hợp pháp, âm mưu lật đổ chính quyền.”
Một hôm, tên cán bộ quản giáo quê Nghệ Tĩnh vừa được chuyển tới, ra lệnh anh Được quét sân. Vì giọng nói của tên này khó nghe, nên anh Được vẫn ngồi yên uống nước trà. Gã cán bộ nhào tới xỉ vả và đánh anh một bạt tai.
Nổi nóng, anh Được cầm lon guigoz dựng nước nóng tạt vào mặt tên cán bộ mất dạy, vô văn hóa và chỉ tay nói: Mày là giống gì mà mất dạy quá vậy? Bộ tao là súc vật à, ai cho mầy vô phép dữ vậy?!! Tao tuy tàn tật nhưng không để cho mầy sỉ nhục đâu. Đồ quân mất dạy, con tao còn lớn hơn mày nữa mà...
Được chưa nói hết câu, tên cán bộ tàn ác vô giáo dục nhào tới đánh anh vào đầu ào cổ, và chưởi rủa những tiếng khó nghe. Anh Được bị té xuống đất, nó liền đá vào đầu vào bụng anh. Thấy vậy, anh Dũng cà thọt chạy tới can, bị mất thăng bằng, anh níu áo tên cán bộ này và cả hai ngã xuống đất.
 
Tức thì, bảy tám tên cán bộ quản giáo ác ôn khác từ trong nhà chạy ra vây đánh hội đồng, cả hai anh lăn lộn chịu đòn trên mặt đất. Dũng hốt cát ném vào mặt mấy tên cán bộ, đang lúc chúng còn đang dụi mắt, Dũng nắm chân một tên kéo xuống, xong thúc cùi chỏ vào mặt y.
Một tên khác đi tìm một khúc tre làm cột phơi áo quần quất tới tấp vào mình, đầu anh Dũng. Tiếng bình bịch, bồm bộp vang lên khô khan, máu từ đầu và vết thương cụt của anh Dũng bê bết trên đất. Trại viên chạy ra năn nỉ xin tha, đám cán bộ chĩa súng đòi bắn, lùa tất cả mọi người vào phòng; Dũng và Được bị kéo lên văn phòng trại.
Trời bắt đầu tối, không ai còn lòng dạ nào để ăn cơm, từ phòng tra tấn đến phòng giam tập thể không xa nhau lắm, nên chúng tôi nghe được câu còn câu mất...
Nội dung những tiếng la hét, tra khảo và trả lời đại khái như sau:
- Mầy đeo cái gì tòn ten dưới cổ hả thằng kia?
- Thánh Giá.
- Cởi nó ra khỏi cổ ngay lập tức.
- Còn lâu. Không ai có quyền buộc tôi phải bỏ nó ra. Bộ muốn cấm đạo hả. Cây Thánh Giá này là tượng trưng cho tín ngưỡng của tôi, không ai có quyền buộc tôi bỏ ra.
Tức thì tiếng huỳnh huỵch vang lên, có lẽ chúng đá vào người anh Dũng. Tên cán bộ người Nam nghiến răng hằn học (chúng tôi chỉ nghe rõ tiếng Nam của tên nầy)... Đạo hả... Đụ má đạo... đạo nè...
Bớ người ta chúng đánh người... Họ giết chúng tôi! Anh Được gào lên nửa chừng rồi tắt nghẹn. Những tiếng “huỳnh huỵch... bồm bộp” lấn át tiếng la của Được. Chúng tôi chỉ nghe những tiếng rên rỉ dứt khoảng rồi im bặt.
Sáng hôm sau, bọn cán bộ quản trại cho hay, hai anh Dũng và Được đã “hành hung cán bộ và cắn lưỡi tự tử chết.” Chiều tối, chúng tôi hỏi bốn người hồi sáng đi chôn Dũng và Được thì biết rằng xác hai anh đầy vết tím bầm, mắt của Được bị sưng tím đen, mặt Dũng thì máu đóng cứng. Hai anh có lẽ chết vì những vết thương ở đầu, máu dưới tóc cứng khô, cạy mãi không được. Khi bó xác, bốn người phải ký giấy chứng nhận các anh tự tử mới cho phép chôn.
 
Người phải lên tiếng nói...
Trong thời gian dài chiến tranh nơi Miền Nam, dẫu trên chiến địa hung hãn, bản thân chúng tôi chưa hề thấy lính Miền Nam hành hạ tù binh, đừng nói tù binh bị thương. Một trong những bức hình nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Hạnh, có một tấm ảnh ít người kể ra: Cảnh một người lính Nhảy Dù VNCH vác một thương binh Việt cộng ở mặt trận Chợ Lớn hồi Mậu Thân 1968.
Thế nhưng, bức hình Tướng Loan bắn tên khủng bố cộng phỉ lại được phổ biến khắp cùng báo Mỹ và thế giới. Sau này, tác giả tấm hình đã có những giọt nước mắt muộn màng hối lỗi. Quả thật, thế giới đã từ lâu im lặng đồng lõa cùng tội ác ở Việt Nam một cách quá đỗi hèn hạ và bất công.
 
Phải, người phải lên tiếng nói, nếu không, sự im lặng sẽ là một biểu lộ cứng lòng nhẫn tâm đáng kết án. Thế nên, trong những năm qua, từ tây sang đông thế giới đã hằng có những tấm lòng xa xót cùng nỗi đau của người lính thương trận nơi quê nhà... Nhưng quả thật, tất cả đóng góp nầy chỉ mới là phần cứu nạn khẩn cấp, chứ so cùng thống khổ vô vàn kia vẫn còn rất nhiều thiếu sót.
 
Và kỳ diệu thay, nguồn mạch Tình Thương Việt Tộc - Nghĩa Đồng Bào luôn tồn tại sắt son liên lụy mối đau thương kia đã chạm tái tim người - Những người không tham dự cuộc chiến, chưa hề mặc áo lính, nhưng lương năng khởi động từ trái tim xót đau - Trường hợp người tuổi trẻ, Bác Sĩ Phan Minh Hiển - Một của những gương mặt hãnh diện đích thực của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại với những đóng góp nhiệt thành tích cực, hiệu quả trong hàng loạt công tác suốt hơn hai mươi năm qua là một điển hình...
 
Cứu cấp người vượt biển, mất tích, trên biển Đông; cứu trợ người tỵ nạn ở các đảo, ở Pháp; giúp trẻ mồ côi, gia đình nghèo khó, người tàn tật (chủ yếu ở Miền Nam), và cuối cùng, khi những thành phần vừa kể tạm có đời sống ổn định, Phan Minh Hiển dồn nỗ lực yểm trợ với đối tượng Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thành phần hứng chịu khổ nạn nặng nhất, sớm nhất từ cuộc chiến, mà dẫu quê hương đã im tiếng súng hơn hai mươi năm, nỗi cùng khổ kia vẫn chưa có dấu hiệu được bù trừ, như phần cơ thể mất đi không thể tái sinh, như người chết không hề sống lại. 
 

Chúng tôi đã là một thế hệ thất bại, nhưng chúng tôi không hề thất vọng bởi luôn giữ vững mối tự tin. Chính chúng tôi chứ không ai khác, là Người Lính thuần thành hằng thực hiện sứ nhiệm BẢO QUỐC AN DÂN.
 
Sự xác chứng nầy hiện thực trong lòng mỗi người dân và chiến hữu chúng tôi xứng đáng nhận lãnh lòng tri ân, phục hồi danh dự và nhân phẩm, bởi chính họ là những Chủ Thể góp máu, xương trong ý nghĩa thực tế, cụ thể nhất để Miền Nam đã một lần sống động dân chủ, tự do - tự do được trả giá bằng đời sống đã mất đi theo tuổi trẻ, hy vọng và sự sống của chính mỗi người lính./ - 
 
(Sài Gòn trong tôi/ Người Lính QLVNCH Phan Nhật Nam - Người Lính VNCH trong lửa đạn và sau cuộc chiến)
 

No comments:

Post a Comment