
Sài Gòn 1968 và 1969 qua ống kính Brian Wickham
Ý chí và nhiệt tâm kiến thiết quốc gia của người Việt từng có một giai 
đoạn sáng chói. Năm 1955, xuất phát điểm của miền Nam cũng gần tương tự 
miền Bắc. Sau khi Pháp rút, Việt Nam nói chung là một quốc gia nông 
nghiệp nghèo nàn, công nghiệp gần như bằng không, cùng với nhiều cái 
“không” khác, từ hệ thống giáo dục, chăm sóc y tế đến quản trị hành 
chính. Miền Nam đã xây dựng tất cả từ bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen.
Chỉ trong 5 năm, từ 1955-1960, miền Nam đã lột xác với công cuộc kiến 
thiết toàn diện, bằng các chính sách dinh điền, xây dựng thủy nông, lập 
khu kỹ nghệ, phát triển điện lực, thiết lập hệ thống giao thông, khai 
thác tài nguyên khoáng sản, xây dựng hệ thống ngân hàng… Đó là “5 năm 
vàng son” như cách nói của giáo sư Nguyễn Tiến Hưng trong “Khi đồng minh
 nhảy vào” (cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh 2016). “5 năm vàng son” đã tạo 
nền tảng cho sự phát triển miền Nam trong 15 năm sau đó.
Trong khi “Kế hoạch Ngũ niên I” (1957-1961) tập trung việc xây dựng canh
 nông (lập khu dinh điền; thu xếp nơi sinh sống cho đồng bào di cư miền 
Bắc…), ngư nghiệp, công kỹ nghệ, công chánh, điện lực, khoáng sản…, “Kế 
hoạch Ngũ niên II” (1962-1966) nhấn mạnh việc gia tăng mức sống người 
dân và đặc biệt chú trọng đến giáo dục, y tế, xã hội và lao động. Khu kỹ
 nghệ Biên Hòa được xây trong thời gian này (theo sắc lệnh ký ngày 
21-5-1963); tiếp đó là khu kỹ nghệ Phong Dinh (1967).
 Ngày 1-4-1961, 
công trình thủy điện Đa Nhim được khởi công; nửa tháng sau, nhà máy xi 
măng Hà Tiên ra đời…
 Trong lĩnh vực công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp 
dệt, đồ hộp, thủy tinh, nhựa dẻo, lắp ráp cơ khí… phát triển rất mạnh.
 Đến năm 1968, miền Nam đã có 85 hãng dược, sản xuất 2.203 dược phẩm, 
chiếm 70% thị phần, với nguyên vật liệu chủ yếu trong nước.
     Năm 1950, hệ thống giao thông miền Nam gần như chẳng có gì. Sài Gòn và 
các vùng ven đô vẫn còn nhiều con đường bụi đất mịt mù với những chiếc 
thổ mộ ngang dọc lọc cọc. Chỉ vài năm sau, xe đò đã có thể chạy bon bon 
trên đường nhựa về lục tỉnh. Ngày 7-8-1954, hơn một năm trước khi Thủ 
tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống nền Đệ nhất Cộng hòa, công cuộc
 tái thiết đường hỏa xa xuyên Việt (Sài Gòn-Đông Hà, 1.223 km) đã hoàn 
thành, chạy qua các tỉnh dọc bờ biển Trung Phần với các nhánh nối nhiều 
thành phố lẫn các khu kỹ nghệ (Kỳ Lâm-Nông Sơn; Diên Trì-Qui Nhơn, Tháp 
Chàm-Đà Lạt; Mường Mán-Phan Thiết…).
Các phương tiện giao thông khác cũng nhanh chóng phát triển. Niêm giám 
thống kê Việt Nam 1970 cho biết “chiều dài tổng cộng các đường xe là 
20.896 cây số”; và theo Bộ Công Chánh, riêng Đô Thành Sài Gòn, có 7.400 
xe taxi; 2.440 xích lô máy; 7.500 xích lô đạp; 3.100 xe lam; 464 xe 
ngựa; 60 xe buýt; và toàn miền Nam có khoảng 1 triệu xe gắn máy đủ loại 
(dưới 50 cc)… Hệ thống hải cảng và giang cảng phát triển mạnh đặc biệt 
thời ông Diệm, khi mà các cuộc tấn công của “cộng quân” còn yếu và hạn 
chế. Trong những năm trước 1963, trung bình hàng năm các giang cảng trên
 đồng bằng Cửu Long chuyển vận về giang cảng Sài Gòn khoảng 800.000 tấn 
hàng hóa (lúa gạo, trái cây, than củi, nông thủy sản…).
Trong “Hiện-tình kinh-tế Việt-Nam” (quyển hai; NXB Lửa Thiêng 1972), tác
 giả Nguyễn Huy (giảng viên Đại học Văn Khoa, Đà Lạt, Vạn Hạnh) cho 
biết: “Năm 1937, phi trường Tân-Sơn-Nhất chỉ có một đường bay duy nhất 
bằng đá đỏ, dài 1.500 m chiều Bắc Nam, rồi đến Đệ nhị Thế Chiến mới có 
thêm đường bay Đông Tây dài 1.300 m… Đến năm 1954, Nha Căn Cứ Hàng Không
 của chính phủ Việt-Nam phụ trách phần kiến tạo và kiện toàn hệ thống 
phi trường quốc gia để phục vụ cho hàng không dân sự… Việt-Nam Cộng-Hòa 
đã kiến tạo được một hệ thống phi trường quá đầy đủ đứng đầu Đông-Nam-Á 
với tổng số lối 500 phi trường lớn nhỏ; (trong đó có) 8 phi trường quốc 
tế có đường bay dài trên 2.500 m tiếp nhận được các loại phi cơ DC 28 
trở lên” (nđd, trang 72-74). Tân Sơn Nhất trở thành bãi đáp của nhiều 
hãng hàng không quốc tế, từ Air France, China Airlines (Đài Loan), Pan 
American World Airways, đến Cathay Pacific Airways… Tháng 10-1951, Công 
ty Hàng Không Việt Nam được thành lập với 50% vốn Việt Nam và 50% vốn 
Air France. Phi đội Hàng Không Việt Nam có 22 phi cơ, từ loại nhỏ như 
Cessna đến loại to như Boeing 727.
Đáng nói nhất của một thời “sáng dội miền Nam” (lấy theo tên một tạp chí
 nổi tiếng trước 1975) là chính sách giáo dục. Về đầu tư cơ sở giáo dục,
 năm 1957, Viện Đại học Sài Gòn được thành lập (trước 1954, miền Nam 
không có đại học; muốn học cử nhân phải ra Hà Nội), với 8 phân khoa (văn
 khoa, luật khoa, y khoa, dược khoa, nha khoa, khoa học, sư phạm và kiến
 trúc). Viện Đại học Sài Gòn có hai ký túc xá (đại học xá Minh Mạng cho 
nam sinh viên và đại học xá Trần Quý Cáp cho nữ). Các vị khoa trưởng 
không do Bộ giáo dục bổ nhiệm mà được bầu từ các giáo sư hội đồng khoa. 
Các giáo sư Viện Đại học Sài Gòn đều là những tên tuổi lớn: Cao Văn 
Chiểu, Trần Quang Đệ, Lê Xuân Khoa, Vũ Văn Mẫu… Ngoài ra còn có Viện Đại
 học Huế (1957), nơi in bóng linh mục Cao Văn Luận; hoặc Viện Đại học 
Vạn Hạnh (1965), nơi tập trung những nhà triết học trí tuệ vô song 
(Thích Minh Châu, Phạm Công Thiện, Trí Hải, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ…).
Việc “dựng người” được chú trọng từ cấp tiểu học. Trẻ được dạy cách 
khiêm tốn, trung thực, lễ phép và tôn kính (thậm chí cúi chào một anh 
học trò học “cao” hơn chỉ một lớp). Chủ trương giáo dục hoàn thiện nhân 
cách bên cạnh việc dạy chữ có thể thấy rõ ở chính sách giáo dục cộng 
đồng. Nghị định 2463-GD/PC/NĐ ngày 25-1-1969 của Bộ giáo dục đã yêu cầu 
“tất cả các trường tiểu học trên toàn quốc” (VNCH), kể từ niên khóa 
1969-1970, phải áp dụng chương trình cộng đồng hóa. Trong quyển “Giáo 
dục cộng đồng” (Bộ giáo dục và Trung tâm học liệu xuất bản 1971), nhóm 
soạn thảo viết:
“Trường Cộng-đồng vừa giáo-dục học-sinh vừa hướng-dẫn dân-chúng 
công-cuộc giáo-dục của học-đường chỉ có thể đạt được kết-quả tốt đẹp nếu
 học-sinh, khi bước chân ra khỏi trường không thấy những điều trái ngược
 với lời Thầy giảng-dạy. Cho nên việc giáo-dục ở nhà trường phải đi đôi 
với việc cải-tạo hoàn-cảnh ở bên ngoài… Trường Cộng-đồng hướng-dẫn 
học-sinh tự tìm tòi, học-hỏi đồng-thời phát-triển tinh-thần học tập-thể 
và dân-chủ: để tránh lối học từ-chương nhồi sọ, học-sinh trường 
Cộng-đồng luôn luôn được hướng-dẫn quan-sát địa-phương để tự tìm hiểu 
những vấn-đề liên-quan đến chủ-điểm giáo-dục” (nđd, trang 25). Ban soạn 
thảo cũng nhấn mạnh đây là phương pháp giáo dục “đặt trên căn bản 3 
nguyên tắc chính: dân tộc, nhân bản và khai phóng”.
Miền Nam trong suốt 1955-1975 chưa bao giờ bình yên. Làng quê lẫn đô thị
 liên tục xảy ra những vụ “một xe Lambretta ba bánh bị trúng mìn trên 
hương lộ 10, Long An: 13 hành khách chết, 2 bị thương” (11-3-1965); hoặc
 “lựu đạn giấu trong ổ bánh mì, nổ tại đường Ngô Quyền, Sài Gòn: 2 
quân-nhân Mỹ và 6 người Việt bị thương” (19-3-1965) – như được thuật 
trong “Việc từng ngày-1965” của Đoàn Thêm. Nhưng khói lửa chiến tranh và
 những giọt nước mắt “khóc người tiền phương” vẫn không làm mất đi sự 
tươi đẹp của làng quê, sự lạc quan của dân chúng và sự an bình trong xã 
hội lẫn gia đình. Điều đó thể hiện trong các sáng tác văn học, thi ca, 
và âm nhạc. Không chỉ thịnh vượng ở vật chất, con người cũng giàu lòng 
nhân ái và dạt dào tình yêu quê hương.
“Năm 1960, Đài Loan còn là Formosa, Singapore chưa ra đời, sản xuất 
chính của Thái Lan chỉ có gạo, những mái nhà ở Đại Hàn toàn màu đỏ vì 
người dân phơi đầy ớt để làm kim chi” – tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nhắc 
lại (trong “Khi đồng minh nhảy vào”). Đó là thời điểm mà Mao đang đưa 
Trung Quốc trở về “thời kỳ đồ đá” bằng kế hoạch “Đại nhảy vọt”. Miền Nam
 VNCH đã đi trước và tạo khoảng cách rất xa với các nước khu vực. Điều 
đó cho thấy rằng, việc kiến thiết quốc gia không dễ nhưng không phải quá
 khó. Kiến thiết quốc gia không dùng sức mạnh của sự tàn phá ngu dốt. Nó
 dùng năng lượng kết tụ của trí tuệ và sự nhiệt tâm.
 




 
No comments:
Post a Comment