Thursday, December 15, 2016

Ký ức về cuộc chiến Việt Nam của một phóng viên Đức


Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto thuộc báo Springer Foreign News Service chụp tại Việt Nam năm 1968
Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto thuộc báo Springer Foreign News Service chụp tại Việt Nam năm 1968


02242015-vha-40nam.mp3

     Hơn 40 năm về trước, phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto thuộc báo Springer Foreign News Service được cử đến Việt Nam để viết về cuộc chiến Việt Nam giai đoạn từ 1965 đến 1969, tức vào giai đoạn nóng bỏng nhất.
Ông đã viết nhiều bài báo về các cuộc hành quân của quân đội miền Nam Việt Nam, về con người, đất nước Việt Nam mà ông đã gặp, về đàm phán hòa bình Paris. 40 năm sau cuộc chiến, những ký ức về chiến tranh Việt Nam vẫn còn lại trong ông, và điều này đã được ông viết trong cuốn sách gần đây nhất có tựa ‘Đức: Thâm tình của một phóng viên với một dân tộc đau thương sẽ được ấn hành lần thứ ba nhân kỷ niệm 40 năm cuộc chiến vào năm nay. Việt Hà phỏng vấn phóng viên Uwe Siemon-Netto, hiện đang sinh sống tại California, Hoa Kỳ.


   Việt Hà: Thưa ông, khi ông được cử đi đưa tin về cuộc chiến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1965, suy nghĩ của ông lúc đó là gì, ấn tượng lần đầu của ông khi đến Việt Nam lúc đó là gì?
Uwe Siemon-Netto: Tôi được cử đi Việt Nam lần đầu tiên vào tháng một năm 1965. Ấn tượng đầu tiên của tôi đối với Việt Nam là sự quyến rũ của đất nước này. Lúc đó chiến tranh đang diễn ra và có những vụ khủng bố nhưng Sài Gòn vẫn là hòn ngọc viễn đông hay Paris của châu Á. Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi. Ngoài ra tôi rất ấn tượng với con người Việt Nam, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra là ấn tượng về những chiến thắng của những người lính Việt Nam trên chiến trường chống cộng sản và điều này đã được tôi mô tả trong một phần của cuốn sách của tôi, đó là chương 3 về đại úy Ngữ gần biên giới với Campuchia. Ấn tượng thứ hai là về thực chất của cuộc xung đột. Theo tôi nó đã không được mô tả một cách đầy đủ trong nhiều bài báo của Mỹ, chủ yếu là sự khủng bố, giết chóc mà việt cộng thực hiện.
Việt Hà: Ông đã viết về những cuộc hành quân, những trận chiến, trận chiến nào đã để lại ấn tượng nhiều nhất cho ông?
Uwe Siemon-Netto: Ấn tượng đầu tiên rất mạnh của tôi về một trận chiến mà tôi đưa tin là khi tôi theo một trung đoàn VN vào một làng ở trong rừng đã bị Việt cộng chiếm vào đêm trước. Ở đây chúng tôi đã thấy những gì mà họ (Việt cộng) đã làm với gia đình người trưởng làng.
Người trưởng làng cùng vợ và 11 người con của ông bị treo trên cây, bị giết hại một cách kinh khủng, bộ phận sinh dục của ông bị cắt, lưỡi bị cắt và bị nhét vào mồm. Ngực của vợ ông ta bị cắt. Tất cả bị treo trên cây vào buổi đêm. Đây là cách mà họ cảnh cáo người dân trong làng không nên hợp tác với chính phủ Sài Gòn. Tôi biết chi tiết vì tôi đã vào đó. Tôi không nói tiếng Việt nhưng tôi nói tiếng Pháp tốt, một người ở làng đã mô tả cảnh này cho tôi. Đây là một trong những cảnh tượng kinh khủng nhất.
Trận chiến thứ hai là cuộc tấn công 1965, đến nay là 50 năm. Đó cũng là lần đầu tiên quân Mỹ và quân chính quy miền Bắc đối mặt với nhau. Tôi nhớ sự khủng khiếp khi biết được những người lính miền Bắc còn rất trẻ, mới 15 tuổi đã bị gửi ra chiến trường trong trận tấn công bằng người. Đây là cách mà Nga đã làm trong chiến tranh thế giới thứ 2, đó là điều mà Phát xít Đức đã làm vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Điều này cũng cho thấy thực chất về chính quyền cộng sản.
Rồi tôi cũng đưa tin về tổng tấn công tết Mậu Thân năm 1968 ở Sài Gòn và ở Huế. Tôi đã đứng ở hố chôn tập thể nơi hàng trăm nếu không muốn nói là hàng nghìn thi thể thường dân bị dồn vào đây. Phần đông nạn nhân là phụ nữ và trẻ em. Một số người thậm chí bị chôn sống vì chúng tôi tìm thấy ngôi mộ qua những ngón tay có móng tay được chăm sóc kỹ lưỡng cố đào bới ra khỏi mộ và họ chết ở đó. Họ bị giết chết hoặc chôn sống. Đó là cảnh tượng khủng khiếp và nó vẫn để lại ấn tượng trong tôi trong suốt cuộc đời. Thậm chí giờ đây khi tôi đã già tôi vẫn còn như ngửi được mùi của xác chết.

Việt Hà: Ông đã chứng kiến cảnh người chết hàng loạt trong các vụ thảm sát đó nhưng trong thời gian theo dõi chiến trường Việt Nam, ông có gặp bất cứ những vụ thảm sát nào do quân Mỹ thực hiện hay không, ví dụ như vụ thảm sát Mỹ Lai mà báo chí Mỹ đã đưa tin chẳng hạn?
Uwe Siemon-Netto: Trước hết chúng ta phải vẽ ra đường phân định rõ ràng. Những vụ thảm sát do lực lượng Mỹ và miền Nam thực hiện là những hành động của một số người chứ không phải là một chính sách, không phù hợp với luật pháp của miền Nam và của Mỹ và nó cũng không phải là phương pháp chiến lược của họ. Mỹ Lai là một vụ thảm sát lớn nơi có những hành động sai từ một đơn vị quân đội chứ không phải là một chính sách. Vụ tổng tấn công tết Mậu Thân và những vụ khủng bố khác mà tôi đã nói trước đó, mặt khác, là một chiến lược của tướng Võ Nguyên Giáp, là một phần của chiến tranh nhân dân của ông Võ Nguyên Giáp…. Tôi không bác bỏ người Mỹ đã mắc những sai lầm khủng khiếp, những sai lầm mang tính tội phạm nhưng đó không phải là chính sách của họ mà chỉ là những hành động sai của một vài người hay nhóm người.

Việt Hà: Ông rời Việt Nam trước khi cuộc chiến kết thúc, ông có suy nghĩ gì vào lúc đó?
Uwe Siemon-Netto: Khi tôi rời Việt Nam tôi rất là buồn vì tôi thấy là báo chí Mỹ đã quá nghiêng về cánh tả và đã miêu tả cuộc chiến sai. Rồi tôi quay lại Việt Nam vào năm 1972, những gì diễn ra sau đó là kết quả của đàm phán hòa bình tại Paris giữa Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Mỹ và mặt trận giải phóng Nam việt Nam. Tôi cũng đưa tin về đàm phán này. Sau đàm phán thì quân Mỹ rút khỏi Việt Nam và tôi vẫn rất ấn tượng với chất lượng quân đội Nam Việt Nam, họ là những binh sĩ rất kiên quyết, có kỷ luật và chiến đấu hết mình. Tôi đã nghĩ họ có cơ hội để chiến thắng trong cuộc chiến này. Thực sự họ đã có cơ hội trong năm 1968 về quân sự.
Họ thua vào năm 1968 về mặt chính trị chủ yếu vì truyền thông Hoa Kỳ đã cho người Mỹ thấy một ấn tượng sai rằng cuộc tổng tấn công tết Mậu thân là chiến thắng của miền Bắc. tôi đã nhìn thấy điều ngược lại. Tôi quay lại Huế vào năm 1972 và lúc này đang có một cuộc tấn công lớn từ miền Bắc với xe tăng tiến vào Huế. Và cuộc tấn công của miền Bắc cũng bị đẩy lùi bởi quân đội miền Nam, đặc biệt với thủy quân lục chiến với sự yểm trợ của không quân Mỹ. Cho nên vẫn có hy vọng vào chiến thắng lúc đó cho đến khi quốc hội Mỹ bỏ phiếu không cung cấp thêm hỗ trợ về quân sự cho miền Nam Việt Nam. Đó là kết thúc của câu chuyện.

Việt Hà: Khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, ông ở đâu và lúc đó ông có cảm tưởng thế nào?
Uwe Siemon-Netto: Tôi ở Paris vào lúc đó và tôi đã khóc khi tôi chứng kiến cảnh đó trên truyền hình…. Có một điểm rất gây ấn tượng cho tôi là cho đến lúc cuối của cuộc chiến, người dân vẫn chạy về hướng chính quyền Sài Gòn. Ấn tượng của tôi trong suốt cuộc chiến này là những người tị nạn chỉ chạy về hướng người Mỹ và chính quyền Sài Gòn chứ không phải ra phía Bắc hay Việt Cộng, chỉ trừ một ngoại lệ lúc ban đầu vào năm 1954 khi có một nhóm nhỏ hơn những người miền Nam theo Việt Cộng hướng ra phía Bắc. Nhưng cuối cùng thì nhìn chung người tị nạn hướng về phía Nam trong toàn bộ cuộc chiến.

Việt Hà: Ông đã có dịp nào quay lại Việt Nam sau chiến tranh hay không? và ông có nghe những tin tức gì về Việt Nam ngày nay như đổi mới kinh tế hay không?
Uwe Siemon-Netto: Tôi có quan hệ gần gũi với cộng đồng người Việt miền Nam ở Westminster và Garden Grove. Nhiều bạn của tôi có họ hàng là những người tị nạn, những người bỏ Việt Nam bằng thuyền đã chết trên đường tị nạn. Tôi cũng biết nhiều người miền Nam bị thương ở đầu do bị tra tấn ở các trại tù cộng sản. Những điều này gây cho tôi ấn tượng mạnh. Tôi chưa có cơ hội quay lại Nam Việt Nam sau chiến tranh.  Tôi biết là tình hình đã có những cải thiện.
Ngay cả dưới thời cộng sản thì các bạn cũng có chủ nghĩa tư bản theo một dạng thức nào đó nhưng vẫn không phải là một xã hội tự do. Trước hết là chính quyền cộng sản bây giờ vẫn chưa thừa nhận những điều khủng khiếp mà những người đi trước họ, đã thực hiện. Tôi vẫn không hiểu nổi tại sao họ không bước lên và nói bây giờ là thế hệ mới, thời kỳ mới, chúng tôi xin lỗi vì những vụ giết chóc ở Huế và các nơi khác.
Đó sẽ là điều an ủi cho những người đã phải chịu đựng quá nhiều, những người đang sống cùng chúng tôi ở Mỹ, ở Đức hay Pháp. Ấn tượng khác nữa là trong khi kinh tế Việt Nam dường như đang phát triển, Việt Nam thành nơi hấp dẫn cho du lịch, nhất là với khách du lịch Mỹ, sẽ rất tốt nếu họ cởi mở hơn trong vấn đề tôn giáo, và cho phép sự đối lập. Điều này sẽ nhanh chóng biến Việt Nam thành một thành viên của những quốc gia tự do.

Việt Hà: Ông có muốn quay lại Việt Nam hay không và trong điều kiện nào?
Uwe Siemon-Netto: Tất nhiên tôi muốn quay lại nếu có thể, nhưng tôi không chắc tôi sẽ được chào đón lắm sau khi cuốn sách của tôi được xuất bản. Nếu có cơ hội cho tôi quay lại Việt Nam, ví dụ như có ai bảo tôi quay lại để viết về những ấn tượng của tôi về Việt nam thì tôi sẽ sẵn sàng quay lại.

Việt Hà: Cuộc chiến đã kết thúc được 40 năm và cuộc chiến cũng đã để lại cho ông nhiều ấn tượng khó phai. Bây giờ nghĩ lại ông có hối tiếc gì không, ông có nghĩ đáng nhẽ ông nên làm gì hay không nên làm gì hay không?
Uwe Siemon-Netto: Tôi ước tôi đã có thể làm nhiều hơn, tôi đã có thể nhấn mạnh hơn về sự khủng khiếp của bản chất khủng bố của cộng sản. Tôi đã làm điều này nhưng có lẽ tôi nên làm nhiều hơn thế.  Tôi đã có thể đi khắp thế giới và nói mặc dù vậy, đây không phải là cuộc chiến của tôi, không phải là cuộc chiến với  nước Đức dù có khá nhiều người Đức đã bỏ mạng trong cuộc chiến. Tôi đã nên làm điều này.
Đặc biệt về cuối cuộc chiến, tôi nên phản đối  sự mô tả về cuộc chiến trong báo chí Mỹ khi họ nói rằng cuộc chiến thất bại là kết quả của sự tham nhũng của chính quyền miền Nam. Thực sự không phải vậy. Đây là cuộc chiến của cuộc chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây, giữa Liên Xô và Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Tôi đã viết về điều này nhưng có lẽ tôi chưa viết đủ. Nhiều người Mỹ lúc đó nghĩ rằng cuộc chiến này là cuộc chiến giải phóng Việt Nam mà thực chất không phải vậy. …
Nói vậy không có nghĩa là tôi muốn một cuộc chiến mới, tôi yêu người Việt Nam và tôi sẵn sàng gặp những người từ phía Bắc. Điều mà tôi không muốn đó là một chế độ độc tài.
 
Việt Hà: Ông nói ông cũng muốn gặp những người từ phía Bắc, ông đã gặp và nói chuyện với người từ phía Bắc bao giờ chưa và họ nói gì với ông về cuộc chiến?
Uwe Siemon-Netto: Tôi đã gặp một giới chức Cộng sản miền Bắc trong đàm phán hòa bình Paris và đó không phải là một cuộc gặp thực sự tốt. Bây giờ tôi cũng đã gặp những người miền Bắc ở Mỹ và cả châu Âu nữa. Trong số họ có những người di cư sau cuộc chiến. Phần nhiều trong số họ không biết về những vụ thảm sát mà tôi đã đề cập tới và thực chất của cuộc chiến hay những điều mà người Mỹ đã làm đúng hay sai. Và tôi đã có những cuộc gặp thú vị với những người miền Bắc trong các năm qua. Chỉ duy nhất một lần tôi có cuộc gặp không hay là với một giới chức chính quyền miền Bắc trong hòa đàm Paris mà thôi.

Việt Hà: Cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc từ rất lâu, theo ông nước Mỹ có học được bài học nào từ cuộc chiến này hay không?
Uwe Siemon-Netto: Rõ ràng là chúng ta đã không học được gì, tôi nói chúng ta có nghĩa là thế giới hay là Mỹ. Rõ ràng là họ đã không học được bài học nào cả. Tướng Võ Nguyên Giáp đã nói với các chính ủy quân đội là, kẻ thù, có nghĩa là phương Tây hay thế giới dân chủ, đã không được trang bị về tâm lý và về mặt chính trị để đạt được thắng lợi trong một cuộc chiến lâu dài. Sự yếu kém của nền dân chủ mà chúng ta đang sống trong đó là con người nhanh chán nản và không quan tâm đã có bao nhiêu người đã bỏ mạng trong quá trình này.
Họ chỉ muốn chấm dứt thật nhanh. Điều mà Võ Nguyên Giáp nói đã được nhắc lại bởi Bin Laden. Thế giới đã không học được gì từ chiến lược của ông Giáp. Rất không may là các nền dân chủ trên thế giới đã không học được bài học gì. Họ không nên cho kẻ thù một ngày nghỉ, chúng ta không thể đợi để kẻ thù biến mất và chúng ta tới tiếp quản.
Đó là điều mà Mỹ đã làm vào những năm 70 và bây giờ họ đang làm ở Iraq và ở Afghanistan vì quan điểm của công chúng, bởi công chúng muốn chấm dứt và muốn bắt đầu một việc khác, trong khi đã có nhiều người chết. Điều này làm tôi thấy khó chịu vì nó nói cho kẻ thù của các nền dân chủ biết rằng chừng nào họ còn kiên nhẫn thì họ sẽ có chiến thắng. Đó là thảm họa.
Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.

Việt Hà, phóng viên RFA 

***
         Tình yêu của một ký giả dành cho
 
                      một dân tộc đầy thương tích

Uwe Siemon-Netto 
Dịch giả: Lý Văn Quý




Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng."
Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.
Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng." Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc "chiến tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh của nhân dân." Thực tế không phải như vậy.
Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa.
Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân. Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I have no dog in this fight" (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà báo", tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương.
Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng.
Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này.
Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927)
. Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?
Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất.
Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả.
Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: "Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!" Charton: "Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố."
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội.
Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra. Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế là nơi vào năm 1972 chẳng có hành khách nào đến đó. Chỗ của tôi sẽ ở nơi khác chăng? Tôi còn có gì nữa ngoài niềm hy vọng?
__._,_.___

nguồn: bacaytruc.com

@ MỘT PHÓNG VIÊN - KÝ GIẢ NGƯỜI ĐỨC SIEMON NETTO PHÂN TÍCH VÀ GHI NHẬN TRUNG THỰC CUỘC CHIẾN VN CÙNG SỰ DẢ MAN KINH KHIẾP CỦA BÈ LỦ BẮC CỘNG - NHỮNG KẺ GÂY CHIẾN

No comments:

Post a Comment