 
 Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau
 khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký 
kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi 
Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 
trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ 
tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia 
cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của
 dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất 
nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến 
năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn 
quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 
100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau 
thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác 
biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông
 Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí 
Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở 
bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản
 ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
Ít
 nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản 
trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho 
phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo
 điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, 
tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 
80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung 
để di cư có 300 ngày để di cư. Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve
 được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, 
công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc 
gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký 
bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng 
buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.

Ông
 Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết 
không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam 
và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng: “... 
Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng 
Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản
 không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu
 cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn 
tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong 
công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở." Tuy vậy, 
lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được 
Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các 
báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp 
hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng 
tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, 
thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của 
mình". Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, 
Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về 
phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt 
Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để 
lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư 
được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát 
biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

TT Ngô đình Diệm với dân tộc thiểu số
Một
 ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng 
Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để
 bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước. Ngày 22 tháng 7 năm 
1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố
 hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một 
cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc 
đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả 
nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ
 lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, 
và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt 
Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống
 trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước. Sở dĩ
 chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như 
các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt
 đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn 
không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô
 Đình Diệm. Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa,
 với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt
 Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia 
Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng 
tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một 
cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những 
điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô 
cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng 
cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc 
phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ 
mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu 
cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt 
Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở 
miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại 
chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, 
thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng
 bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.

Trở
 lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng 
bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất 
bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, 
thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính 
khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái
 chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách
 thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng 
khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc 
thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để 
xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn
 phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 
1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi 
được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để 
chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do này. Cho nên, chỉ có 
khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 
ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền 
Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính 
quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương 
của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng 
dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không
 đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng 
nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những 
ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt 
gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt 
đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa 
đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không 
còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, 
quyết định ở lại chung sống với cộng sản.

Do
 vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng 
là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, 
vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản 
động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống 
dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy
 nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công 
giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ
 di cư". Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục 
giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên
 họ phải đi theo” Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ 
tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người 
hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là 
người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, 
nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích
 lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do đó là 
lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 
800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử. Trong khi 
đó, có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do
 Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho
 dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt 
Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát 
Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản 
Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong
 số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách 
di cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo 
trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam. Theo số liệu thống kê Uỷ hội 
Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của 
chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, 
còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp 
chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 
2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con 
cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam. Ngày 9 tháng 8 
năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm 
lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại 
diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến 
định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư 
nhân giúp sức. Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến
 bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc 
vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư. Ngày 04 tháng
 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong 
Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài
 Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế 
giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt
 trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ 
cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 
lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

Ngoài
 ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng 
Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển 
ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng 
trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung 
Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". Ngoài ra cũng có tới 
102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự
 túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc. Được sự trợ giúp tận 
tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất 
sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền 
Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của
 chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức
 Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với 
mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới
 còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý 
tưởng tự do mà phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn.

Những tướng tá đã tham gia vụ đảo chánh ngày 01/11/1963.
Biến
 cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho 
toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã 
một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về 
trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, 
nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi 
về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của
 ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn 
Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, 
rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau 
(tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là
 hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự 
sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần 
nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa trong đời. Thật 
là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm 
khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc 
tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và 
cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị
 ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên
 bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao 
chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều
 người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần 
Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn 
Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn 
Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là 
những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng 
miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những 
người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm 
niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót 
sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà 
thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống 
lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc 
cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh
 minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền,
 bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ những ân huệ, 
bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với
 những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông lưu 
vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ 
sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc 
Việt sẽ phán xét họ. Tôi viết lên bài tâm bút này chỉ là để làm tròn ước
 nguyện của ông tôi trước khi qua đời cũng là xin được tỏ bày lòng tri 
ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một 
lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954. 
Tượng đài xây dựng bởi Ts Hồ Nam Trân tại Thụy Sĩ
Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ với tấm lòng thành kính tri ân muôn đời muôn kiếp của con dân đất Việt.
.Nguyễn Thu Trâm 8406
| Ngo Dinh Diem Fondation tinhthan_ngodinhdiem @yahoogroups.com | 
 
 
No comments:
Post a Comment