NHỮNG NGÀY GIỜ CUỐI CÙNG
40 năm trước, cộng sản Hà Nội
ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Ba Lê mở cuộc tấn công quy mô vào Ban Mê
Thuột với ý định thăm dò phản ứng của chính phủ Mỹ và
sức mạnh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phần muốn bảo tồn lực lượng,
phần muốn tạo áp lực buộc chính phủ Mỹ phải thực hiện những gì đã cam
kết, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định triệt thoái toàn bộ lực
lượng khỏi vùng cao nguyên trung phần. Nhưng vì không chuẩn bị chu đáo,
giao thông bị tắc nghẽn, phương tiện di tản thiếu thốn, thời gian lại
gấp rút, và lòng dân thì quá hoang mang, nên cuộc triệt thoái đã trở
thành một thảm kịch bi hùng đầy máu và nước mắt. Những sai lầm của cuộc
triệt thoái cao nguyên, cộng thái độ “hoàn toàn phủi tay” của chính phủ
Mỹ, đã là những nguyên nhân khiến cộng sản Hà Nội vội vã thực hiện nốt
dã tâm thôn tính Miền Nam.
Giữa cơn binh lửa thập phần dầu
sôi lửa bỏng của cuộc chiến, chính phủ Mỹ và những thế lực chủ hòa tại
Miền Nam đã ngây thơ, hoặc cố tình nhắm mắt, tin tưởng cái gọi là “VC có
thiện chí hòa hợp hòa giải với một chính phủ không có Thiệu” mà những
người cộng sản rêu rao. Sự tin tưởng mù quáng này đã dẫn đến những áp
lực khiến tổng thống Thiệu, một người chống CS kiên quyết và có bản
lãnh, phải từ chức và quyền lực quốc gia được trao cho phó tổng thống
Trần Văn Hương.
Không đầy tuần lễ sau, vì muốn
duy trì trật tự cho người Mỹ triệt thoái an toàn, Mỹ và cộng sản VN, qua
sự dàn xếp của Nga Xô, đã tung hứng, tạo cho VNCH ảo tưởng, CSVN chỉ
chấp nhận thương thuyết nếu Dương Văn Minh được làm tổng thống. Kết quả,
cụ Trần Văn Hương phải từ chức và trao quyền tổng thống cho tướng Dương
Văn Minh, cho dù việc trao quyền này hoàn toàn vi hiến. Cũng cùng một
ảo tưởng tương tự, trong bài diễn văn nhậm chức tổng thống đọc vào chiều
ngày 28 tháng 4, tân tổng thống Dương Văn Minh ngây thơ kêu gọi những
người cộng sản ngưng bắn để thương thuyết, mà không thể ngờ được, ông
chỉ là một lá bài trong canh bạc chính trị do những người cộng sản tháu
cáy.
Khi đó, 16 sư đoàn quân Bắc
Việt với tổng số trên 200 ngàn tay súng đã có mặt quanh thủ đô SàiGòn.
Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, tất cả những con đường
huyết mạch dẫn vào thủ đô Sài Gòn đều bị cắt đứt. Thêm vào đó, chính phủ
Mỹ không những công khai phản bội VNCH, mà còn âm thầm bắt tay với Nga
Xô để đi đến những điều kiện thỏa hiệp với CSVN.
Trong thế thượng phong về quân
sự và ngoại giao như vậy, không khi nào cộng sản chịu chấp nhận thương
thuyết hay hòa hợp hòa giải với bất cứ ai. Vì vậy, tất cả những lời kêu
gọi hòa bình của tân tổng thống Dương Văn Minh cũng như của các chính
phủ trên thế giới khi đó chỉ được những người cộng sản tung hứng một
cách xảo quyệt, nhằm tạo ảo tưởng và gây phân hóa sức mạnh chống cộng
của quân dân Miền Nam.
Sau khi lũng đoạn và phân hóa
hàng ngũ VNCH tối đa, và thấy Dương Văn Minh đã được làm tổng thống,
CSVN liền leo thang thêm một bước, đòi Mỹ phải rút khỏi lãnh thổ Miền
Nam, và tân chính phủ SàiGòn phải không có người của “chế độ cũ”. Không
những thế, CS từ chối mọi thương thuyết, và mở màn cuộc pháo kích SàiGòn
vào rạng sáng ngày 29 tháng 4. Riêng phi trường Tân Sơn Nhất, khoảng
150 trái pháo 130 ly nổ tung khiến cuộc di tản bằng phi cơ phải đình
chỉ. Lúc đó là 4 giờ chiều ngày 28 tháng 4, giờ Hoa Thịnh Đốn.
Ngay khi hay tin phi trường Tân
Sơn Nhất bị pháo kích, tổng thống Ford vội vàng hội kiến cùng các cố
vấn trong hội đồng an ninh quốc gia. Đến 10 giờ 45 phút giờ Hoa Thịnh
Đốn, quyết định di tản nốt người Mỹ còn lại bằng trực thăng được tổng
thống Ford phê chuẩn và chiến dịch mệnh danh “Frequent Wind” được chính
thức mở màn trên biển Đông vào lúc 11 giờ tám phút sáng ngày 29 tháng 4.
Việc thực hiện chiến dịch “Frequent Wind” được trao cho lực lượng đặc
nhiệm Task Force 76 thuộc Đệ Thất Hạm Đội. Toàn bộ phi cơ trên hai hàng
không mẫu hạm Enterprise và Coral Sea thuộc lực lượng đặc nhiệm Task
Force 77 có trách nhiệm yểm trợ tối đa cho chiến dịch “Frequent Wind”.
Trong thời gian không đầy 24
tiếng đồng hồ, kể từ 11 giờ 8 phút sáng ngày 29 đến 8 giờ sáng ngày 30
tháng 4, chiến dịch “Frequent Wind” đã di tản thành công 7100 người bao
gồm cả người Mỹ, Việt và một số ngoại kiều không phải Mỹ. Cùng với cuộc
di tản chính thức do người Mỹ thực hiện, nhiều phi công Việt Nam Cộng
Hòa đã cùng gia đình di tản bằng phi cơ ra Đệ Thất Hạm Đội. Ngoài ra
trong những giờ phút cuối cùng của tháng tư, hàng chục ngàn người Việt
Nam đã đáp tàu, thuyền các loại, ồ ạt đổ ra biển đông để tỵ nạn cộng
sản. Đến 7 giờ 52 phút sáng ngày 30 tháng 4, toàn bộ cuộc di tản của
người Mỹ thực sự kết thúc sau khi chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh
rời khỏi không phận Miền Nam.
Không lâu sau, xe tăng của cộng
sản Bắc Việt được lệnh tiến vào đường phố thủ đô SàiGòn, chiếm dinh Độc
Lập và tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản vô điều
kiện trên đài phát thanh. Cùng ngày, tại Ba Lê, phái đoàn cộng sản ngang
ngược tuyên bố đổi tên thủ đô SàiGòn thành thành phố Hồ Chí Minh. Hôm
đó là ngày 30 tháng 4, ngày bi thương nhất của lịch sử Việt Nam thời
hiện đại. Ngày đó đã xảy ra cách đây đúng 40 năm nhưng những hình ảnh bi
hùng, những thảm kịch đầy máu và nước mắt cùng những hậu quả thê thảm
của nó vẫn tiếp tục đè nặng trong tâm trí của hàng chục triệu người Việt
Nam trong và ngoài nước.
AI TẠO NÊN THẢM KỊCH 30.4?
Suốt thời gian 40 năm sau 1975,
hàng triệu trang sách đã được viết, hàng ngàn vị thức giả đã ngày đêm
suy tư, lý luận và hàng chục triệu người Việt Nam đã trăn trở trong mục
đích đi tìm câu trả lời đúng nhất cho câu hỏi: Ai đã tạo nên thảm kịch
30-4?
Dĩ nhiên, đối với phần đông mọi
người trên thế giới, trong đó có rất đông người Việt Nam, đều cho rằng
tiến sĩ Henry Kisinger, cha đẻ của hiệp định Ba Lê với những điều khoản
phi lý, đã bức tử Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều người khác lại tin tưởng,
chính vụ tai tiếng Watergate khiến tổng thống Nixon phải từ chức, và
những lời cam kết trên giấy trắng mực đen của ông đối với tổng thống
Thiệu đã không được tổng thống Ford tôn trọng, nên cộng sản ngang nhiên
vi phạm hiệp định Ba Lê xua quân tấn công Việt Nam Cộng Hòa.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều
người cho rằng, thái độ chủ hòa, bạc nhược của quốc hội Mỹ trong suốt
những năm tháng cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam cộng với những ảnh
hưởng của phong trào phản chiến tại Mỹ, thái độ chán nản của dân chúng
và dư luận Mỹ cũng là những yếu tố quan trọng dẫn đến thảm kịch 30 tháng
4.
Ngoài ra, còn có nhiều người
tin rằng, việc hành xử thiếu đúng đắn quyền hạn và trách nhiệm của đại
sứ Martin, những sai lầm về chính trị, quân sự của tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu và một số tướng lãnh, chính trị gia Việt Nam Cộng Hòa, đã là
những yếu tố đáng kể đưa Việt Nam Cộng Hòa đến thảm kịch 30-4.
Đặc biệt, nhiều người cũng cho
rằng, những ngây thơ về chính trị, những ảo tưởng về chủ nghĩa cộng sản
của các cá nhân, các tầng lớp trong xã hội Miền Nam, làm yếu đi tiềm
năng chống cộng đồng thời là vùng đất màu mỡ tạo nên một tầng lớp chủ
hòa, thân cộng, thậm chí đi đến hành động “đâm sau lưng chiến sĩ”, đã
góp phần quan trọng đẩy VNCH đến vực thẳm 30-4.
Dĩ nhiên, những nhận xét trên
đây không phải là không có lý. Tuy nhiên, nếu nhìn vào cục diện cuộc
chiến tranh Việt Nam trải dài suốt thời gian ba thập niên từ 1945 đến
1975, ta sẽ thấy tất cả những nguyên nhân trên đều là thứ yếu. Nguyên
nhân chính yếu dẫn đến thảm kịch 30-4 là tham vọng xâm lăng của cộng sản
Hà Nội được thực hiện với sự hậu thuẫn của CS Nga, Tàu. Và tham vọng đó
của CS không chỉ gói gọn có Miền Nam mà còn bao gồm cả Lào, Căm Bốt, và
Thái Lan.
Sự thực, tham vọng này không
phải là điều mới mẻ mà đã được viết xuống ngay từ năm 1930 khi đảng cộng
sản Đông Dương được thành lập. Đến năm 1954, những người cộng sản đã âm
mưu thực hiện cuộc chiến lũng đoạn Miền Nam bằng cách cài người ở lại
hoặc tổ chức hàng trăm cuộc đám cưới cấp tốc giữa những cán bộ cộng sản
tập kết với phụ nữ địa phương để gieo rắc mầm mống chống đối và thân
cộng tại Miền Nam. Sau năm 1954, tại Miền Nam, lực lượng VC nằm vùng bắt
đầu tuyển mộ, huấn luyện du kích thực hiện những hoạt động khủng bố.
Bằng chứng cụ thể nhất được chính VC ngày nay thừa nhận, năm 1961,
Nguyễn Tấn Thử, đội trưởng du kích Rạch Giá, đã cho con là Nguyễn Tấn
Dũng (hiện là thủ tướng) tham gia du kích Cà Mâu khi NTD mới có 12 tuổi
và 18 tuổi NTD được kết nạp đảng, trở thành tên khủng bố điển hình, 4
lần bị thương, 4 lần đoạt danh hiệu “Dũng sĩ Diệt Mỹ”.
Đến những năm cuối thập niên
1950, cộng sản Hà Nội đã âm thầm đưa người vô Nam và mở đường mòn mệnh
danh đường mòn Hồ Chí Minh để chuyển vũ khí, tài liệu vô Nam. Song song
với âm mưu thôn tính Miền Nam, cộng sản Hà Nội còn thực hiện hàng loạt
âm mưu chính trị, quân sự nhằm thao túng các quốc gia láng giềng là Lào
và Căm Bốt.
Sau khi nặn ra cái gọi là Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam, cộng sản Hà Nội đã ồ ạt đưa người và vũ khí vô
Nam để thực hiện cuộc chiến tranh mệnh danh “giải phóng” bất chấp tốn
kém xương máu và mồ hôi của hàng chục triệu dân Miền Bắc.
Âm mưu của cộng sản và những
điều cộng sản Hà Nội làm trong suốt thời gian ba thập niên là những điều
hai năm rõ mười cả thế giới ai ai cũng biết. Đáng tiếc, nhiều người vì
ngây thơ, nhiều người vì những thù oán riêng tư, bổng lộc nhất thời,
nhất định nhắm mắt, bịt tai không chịu nhận ra kẻ thù chính của mình là
cộng sản Hà Nội. Thay vì vậy, họ lại quay sang nguyền rủa Mỹ, Kissinger,
chửi tổng thống Nixon, chê bai tổng thống Thiệu hoặc tướng lãnh, quân
đội Việt Nam Cộng Hòa là bất tài, bạc nhược. Họ đã vô tình quên mất
những đóng góp tiền của, xương máu, công sức của chính phủ, binh lính và
nhân dân Mỹ, cùng những hy sinh bất khuất, những đớn đau vô bờ bến của
quân, dân Việt Nam Cộng Hòa trong suốt 20 năm chiến tranh.
Đồng ý, Kissinger, Nixon, tổng
thống Thiệu và một số tướng lãnh quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã phạm
phải những sai lầm hoặc có những quyết định sai lầm, góp phần vào sự sụp
đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nếu nhìn vào bản chất hiếu chiến và
tham vọng bành trướng của những lãnh tụ cộng sản Hà Nội được CS quốc tế
Nga, Hoa hậu thuẫn, ta sẽ nhận thấy cho dù hiệp định Ba Lê không có
những điều khoản phi lý bức tử Việt Nam Cộng Hòa, cho dù nước Mỹ không
có một ngoại trưởng thủ đoạn, mưu mô như Kissinger, cho dù Việt Nam lúc
đó không có vụ triệt thoái Ban Mê Thuột, nước Mỹ không có vụ Watergate,
và thậm chí tổng thống Nixon vẫn còn tiếp tục là tổng thống Hoa Kỳ,…
CHẮC CHẮN, với tham vọng xâm lăng Miền Nam của CS Hà Nội và sự hậu thuẫn
của CS quốc tế, thảm kịch 30.4 vẫn xảy ra. Khác chăng, thảm kịch đó có
thể xảy ra muộn hơn một vài năm hoặc một thập niên.
Tại sao ta có thể nói như vậy?
Lý do là cuộc chiến tại Việt Nam trong suốt ba thập niên là một cuộc
xung đột giữa những người quốc gia có tinh thần tự do dân chủ với những
người cộng sản tôn thờ chuyên chế, độc tài và có đầu óc quá khích, sùng
bái sức mạnh của nòng súng, lưỡi lê.
Sự xung đột này nếu xảy ra trong
một xã hội văn minh qua một thể thức bầu cử dân chủ, sự thất bại của
cộng sản là điều chắc chắn. Nhưng nếu cuộc xung đột xảy ra trong một xã
hội dân trí còn lạc hậu, đông đảo người dân còn chưa hiểu bộ mặt thật
của cộng sản ghê gớm đến mức nào và hình thái cuộc xung đột là võ trang
thì thế thắng thường nghiêng về phía CS, những kẻ tôn thờ sức mạnh và
chuyên chế độc tài. Cuộc xung đột này cũng giống như những tên côn đồ
tay dao tay súng, nhào vô đâm chém rồi cướp của đốt nhà của một vị thức
giả đạo đức, giầu lòng nhân nghĩa.
AI CHIẾN THẮNG TRONG CHIẾN TRANH VN?
Xét trên phương diện chiếm đất, giành dân, cộng sản là kẻ
chiến thắng, nhưng chỉ CHIẾN THẮNG TẠM THỜI. Xét trên phương diện văn
minh tư tưởng và những ảnh hưởng kết quả của sự đồng hóa không thể tránh
khỏi khi những người cộng sản tiếp xúc với một xã hội văn minh như xã
hội Miền Nam, ta sẽ thấy cộng sản mới là kẻ chiến bại.
Lịch sử nhân loại từ xưa đến nay đã cho thấy, những dân
tộc, những bộ lạc có nền văn minh cao khi chinh phục các dân tộc khác,
họ sẽ đóng vai trò khai hóa đối với các dân tộc có trình độ văn minh
thấp hơn. Trái lại, những dân tộc, bộ lạc có trình độ văn minh thấp kém
nhưng hiếu chiến, hiếu sát, khi xâm chiếm và chinh phục những dân tộc
khác có trình độ văn minh cao hơn, họ sẽ dần dần bị chính dân tộc mà họ
chinh phục, đồng hóa theo thời gian. Cụ thể sự đồng hóa của người Mãn
Thanh trước văn minh của người Hán khi người Mãn xâm chiếm Trung Hoa
cũng như sự đồng hóa của người Bắc Âu khi tiến xuống các bộ lạc vùng
Trung Âu là những bằng cớ chứng tỏ, sức mạnh của văn hóa và tư tưởng mới
là thống soái trong những cuộc chinh phục trên bề mặt trái đất. Đó là
một quy luật của lịch sử và cũng là quy luật của tự nhiên.
Nhìn vào xã hội Miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung
hiện nay, ta không thể không thừa nhận những ảnh hưởng to lớn của tư
tưởng tự do, dân chủ và trình độ văn minh trong xã hội Miền Nam đối với
những người cộng sản cũng như đối với xã hội Miền Bắc. Chính những ảnh
hưởng to lớn này đã, đang và sẽ dần dần làm thay đổi nếp nghĩ, sự suy tư
của những người cộng sản để rồi dần dần những người cộng sản sẽ bị biến
chất, chuyển hướng và trút lốt.
Thực tế cho thấy, trong suốt 40 năm qua, những ngôn ngữ ăn
năn, hối hận của những nhà văn, nhà thơ CS nổi tiếng, trong đó có Chế
Lan Viên, có Dương Thu Hương; những lời thú nhận tội lỗi của những tướng
lãnh, lãnh tụ cao cấp trong guồng máy CS như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng
Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Võ Nguyễn Giáp, Võ Văn Kiệt; và đặc biệt, lời
tuyên bố của Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, khẳng định một sự thực bất
khả chối cãi: “Trong chiến tranh VN, kẻ thắng VC là kẻ ác, kẻ phi
nghĩa”.v.v… đã cho thấy, chân lý, chính nghĩa và lẽ phải thuộc về Việt
Nam Cộng Hoà. Và chính những người cộng sản cũng nhận, những thay đổi
cực kỳ nguy hiểm trong hàng ngũ cộng sản nhưng đành bất lực vì sự thay
đổi tuy xảy ra một cách âm thầm và chậm chạp, nhưng không một sức mạnh
gì có thể ngăn cản nổi. Và như vậy, trong thời gian 10, 15 năm nữa, chủ
nghĩa cộng sản tại Việt Nam sẽ bị cáo chung nhường bước cho tự do dân
chủ và một hình thái chính trị phi cộng sản phát triển.
Tóm lại, nếu những người cộng sản Hà Nội khôn ngoan, xảo
quyệt tiếp tục cai trị Miền Bắc mà không nghĩ đến chuyện thôn tính Miền
Nam, thì tư tưởng tự do dân chủ và trình độ văn minh tại Miền Nam khó có
thể “thấm dần” ra đất Bắc. Như vậy chủ nghĩa cộng sản tại Miền Bắc còn
có khả năng tồn tại trong cái vỏ bọc lạc hậu và độc tài trong nhiều thập
niên nữa.
Trái lại, theo đuổi việc thôn tính Miền Nam bằng sức mạnh và
thủ đoạn, cộng sản chỉ giành được chiến thắng quân sự tạm thời trước khi
bước vào giai đoạn “dần dần héo úa” để rồi vĩnh viễn tàn lụi.
No comments:
Post a Comment