Sunday, February 8, 2015

Một cuộc hội nhập đầy hứng khởi

Di cư 1954
Di cư 1954

   Một triệu người di cư là một vấn ðề chính trị như tổ chức di cư, ðịnh cư, ổn ðịnh ðời sống.
Nhưng việc hội nhập là vấn ðề của mỗi một người di cư. Tôi gọi ðó là một cuộc Hội nhập ðầy phấn khởi vì ở nơi ðó ðã không có một cuộc chống ðối ðổng loạt của bất cứ ðịa phương nào. Ðược như vậy vì vài lẽ sau ðây:
· Người di cư hiểu thân phận mình là kẻ mới ðến nên can ðảm và kiên trì. Cúi mình xuống ðể ðược nâng lên. Họ cũng hiểu rõ hơn luật thiểu số-ða số cũng như nhập gia tùy tục.
· Người dân bản ðịa cũng vốn là một di dân không lâu, có truyền thống lịch sử hiếu khách lại vốn có bản tính rộng lượng và biết phải quấy.
· Nhờ ðó sau 21 nãm của cuộc di cư, họ ðã mau chóng trở thành một khối dân thuần nhất gồm hơn 20 triệu người. Sự thuần nhất còn trở nên khắng khí, bền chặt hơn khi ðối diện với người chiến thắng. Không ai bảo ai, họ ðều cảm thức ðược họ là kẻ thua cuộc và họ nhìn kẻ thắng cuộc bằng cái nhìn xa lạ, nghi kỵ và cả bất mãn nữa.
· Ngay cả người Bắc di cư nãm 1954 và người Bắc vào miền Nam sau 1975 tưởng rằng họ cùng quê hương xứ sở, cùng họ hàng máu mủ, cùng chia xẻ một nền vãn hóa, nhất là cùng một giọng nói miền Bắc. Tưởng vậy thôi, nhưng là tưởng lầm.  
   
    Giửa hai người Bắc 1954 và Bắc 1975 ðã không cùng có mẫu số chung. Khoảng cách phân chia giữa họ ðôi khi còn coi nhau như kẻ thù. 
Ngay cả việc tìm lại họ hàng máu mủ ruột thịt cũng là một trở ngại, vướng mắc khó vượt qua. Có những trường hợp, người con trai ở miền Nam ðã không muốn nhìn nhận lại người cha ruột của minh vì nghĩ rằng người cha ấy ðã không làm tròn bổn phận người chồng, người cha trong gia ðình. Ðó là một bi kịch của cuộc chia ðôi ðất nước.
· Nhưng bi kịch ấy ở mặt Hội Nhập của những người di cư vào miền Nam lại trở thành một niềm hy vọng và phấn khởi.
· Tôi chưa từng ðược nghe một người nào trong số một triệu người ði vào Mam than vãn là ðã quyết ðịnh lầm hay ðã dại dột vào Nam. Nỗi niềm hoang mang lúc ban ðầu cũng như phải vất vả với cuộc sống mới hầu như người nào cũng trải qua..
· Tôi vẫn phải tự hào nhận rằng, tôi là một trong những ðứa trẻ di cư ấy. Tôi ðã ðược ãn học ðến nơi, ðến chốn và là một trong những người di cư may mắn ðó. Và tự thâm tâm tôi tự coi mình là người miền Nam theo trọn nghĩa của nó. 

Từ sau 1975, chỉ có một cụm từ chỉ chung chúng tôi là  : Người Miền Nam. Hay người Việt quốc gia. Chúng tôi suy nghĩ, kiên ðịnh lập trường, tranh ðấu, viết lách, sinh sống làm ãn thì cũng chung cái cãn cước ấy: Cãn cước Người miền Nam mà không cần lý lẽ biện biệt gốc miền nữa.
· Ðó là cái cãn cước chính trị chúng tôi tự nguyện ðã chọn lựa từ nãm 1954 và nay cũng chẳng có lý do chính ðáng gì ðể thay ðổi cả. Thay ðổi là tự ðánh mất cãn cước của mình. Thay ðổi là phản bội lại chính mình. Mặc dầu hiện nay, tôi có thể nói ðang có sự hình thành, một sự ló diện một trận chiến về cãn cước người tỵ nạn ở hải ngoại. Có những kẻ ðón gió, ðổi chiều. Tôi khinh bọn họ bất kể họ là ai. Và tôi nhìn thấy mối hiểm nguy của người Người di cư và cuộc hội nhậpViệt hải ngoại là họ ðang phải ðối ðầu với những kẻ thù dấu mặt ấy.

   Người di cư và cuộc hội nhập
Khi tôi nhìn hình ảnh một người ðàn ông cụt cả hai chân, phải dùng hai bàn tay làm chân, lết lên chiếc tầu há mồm của quân ðội Mỹ, tôi cảm thức sâu xa ðược ý nghĩa cao ðẹp của cuộc di cư này. Cuộc di cư từ miền Bắc vào Nam ðã vô tình mang theo những con người bất hạnh như thế, hầu hết là tay trắng mà hành lý mang theo chỉ là mớ quần áo rách, nồi niêu xong chảo ðáng giá bao nhiêu.
Tuy nhiên, không ai ngờ rằng bên trong những con người, họ còn mang theo họ chữ viết, tiếng nói, nếp sống nếp nghĩ ðến phong tục tập quán cả ngàn nãm và cả tín ngưỡng của họ nữa.
Mỗi người di cư vào miền Nam ðược coi là người mất quê hương,mất cội nguồn và may mắn thay trong cuộc hội nhập ðầy phấn khởi này, họ ðã tìm lại ðược tất cả. Họ có thể mất tất cả, nhưng có thể tìm lại ðược tất cả.
Về mặt chính trị, họ nay là những người quốc gia có tự do, có dân chủ sống trong một chế ðộ cộng hòa, dân chủ và pháp trị. Ðiều chính yếu là không còn chế ðộ phong kiến cũng như chế ðộ thực dân thuộc ðịa.
Về mặt con người, họ là những người miền Nam trọn nghĩa, hương thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, lấy con người làm cứu cánh. Và nhất là cùng chia, chịu chung số phận sau 1975.
Trong hoạn nạn, họ có nhau, là nhau. Trong trại tù, trại tập trung, họ là anh em.
Ngoải trại tù, ở hải ngoại họ là những người dân miền Nam cùng chia xẻ số phận ðể mất miền Nam.

Nhận diện bộ mặt những người di cư
Xét bên ngoài họ là những người nghèo khổ, nhếch nhác. Họ ãn mặc lôi thôi lếch thếch, gồng gánh, bồng bế con thơ, hoặc ðứa lớn dắt ðứa bé, cả một ðàn nheo nhóc. Nét mặt họ phần ðông còn ngơ ngác, lo âu thể hiện trong ánh mắt.
Phần lớn bọn họ không có ðến nổi một ðôi dép. Họ ði chân ðất là chính. Phần ða số các bà thì chít khãn, ðầu ðội nón sùm sụp.
Nhìn ðám người nghèo nàn khốn khổ này, quê mùa và có vẻ quê mùa, khờ khạo, tự hỏi họ sẽ là gì trong tương lai? Ai dám ðặt ðể tương lai vào cái ðám người này, vào những ðứa trẻ còn ở chuồng, mặt mũi lem luốc trên?
Những cái cảnh bồng bế, dìu dắt nhau từng ðàn, bước lên tàu há mồm là những cảnh ðược quay lại một cách sống ðộng và có thực.
Nhiều khuôn mặt ðàn ông, ðàn bà như già nua trước tuổi. Nó tố cáo những ngày thắng ðầy gian truân và thử thách ðã qua hầu như vừa qua một cơn ác mộng. Nhiều ông bà cụ xem ra khờ khạo, lóng cóng, vụng về trong cử chỉ, nói nãng. Ðụng một tý là kêu: Dạ, không dám. Lạy Chúa tôi. Giê su ma vv.
Bề ngoài trông họ khờ khạo như thế, bên trong thì không biết ðược. Có thể là một ý chí quyết liệt, bất chấp mọi thử thách, bất chấp mọi ðe dọa của cộng sản. Họ có thể sẵn sàng chết ðể bảo vệ tự do con người. Những làng thuộc vùng khu 4, khu nãm, ðôi khi cả làng cùng nhau trốn cộng sản.
Số những người thanh niên, trí thức miền Bắc di cư vào Nam (1) thấy ít ỏi nên tôi không dám chắc bộ dạng của họ có như tôi mô tả ở trên hay không. Tôi xem lại một số hình ảnh trong cuốn sách 50 nãm Bắc Kỳ di cư. Tôi cố hình dung ra hình ảnh cô tài tử ðiện ảnh Kiều Chinh, nhưng không hình dung ra ðược.
Tôi chỉ còn cố ghi lại câu nói của ông Vũ Ðức Minh, tức Minh Võ ghi lại tóm tắt hành trình trên ðường chạy trốn khỏi cộng sản  : Di cư một kỷ niệm ðắng cay, nhưng ngọt ngào.

Khuôn mặt của tín ngưỡng
Theo sự tính toán cân nhắc cẩn thận trong một Bài viết khác, tôi chỉ ước lượng vào khoảng 350.000 tín hữu theo ðạo công giáo di cư vào miền Nam. Tôi gạt bỏ những con số quá thổi phồng từ 750.000-800.000 người công giáo.
Nhưng bởi vì nhóm người này nó thành một tập ðoàn, một khối liên kết chặt chẽ nên nhiều người lầm tưởng họ ðông lắm. Tín ngưỡng có lẽ là một trong các món hành lý mang vào miền Nam còn giữ ðược thuần chất nhất. Tôi còn nhớ hình ảnh một thanh niên sau chuyến vượt thoát ðược cộng sản và lên ðược con tàu của Mỹ ðể ði ði vào miền Nam. Người thanh niên mệt mỏi nằm ngủ ngay trên sàn tàu. Nhưng trên ngực anh, một tay anh còn giữ chặt một cây Thánh giá lớn.
Hình ảnh ðó biểu tượng nhất và cũng lý tưởng nhất. Người thanh niên này bỏ nhà, bỏ cửa ði vào miền Nam vì anh tin rằng, anh có thễ giữ ðạo mà không bị ai cấm ðoán hay ngãn chặn anh nữa.
Người ta cũng nhận thấy ở các trại ðịnh cư một dấu hiệu hội nhập ðầy cá tính miền Bắc. Trại nào nhà cửa cũng ðược xây dựng có hàng lối. Tôi liên tưởng tới các nhà xây dựng có hàng lối ðược gọi là ‘Giồng’ ở miền Bắc. Ðằng trước mỗi nhà có sân nhỏ, ðằng sau có vườn nhỏ, có giếng nước.
Nhưng nay thì thiếu hàng rào dâm bụt quanh nhà. Thiếu hàng cây cau thẳng tắp và sân gạch Bát Tràng, bể nước mưa và hàng lu dọc theo sạn ðựng tương hay cà muối. Nhà cửa xong, họ nghĩ ngay ðến việc dành dụm tiền ðể gom vào xây một ngôi nhà thờ nhỏ, một trường học và một nghĩa ðịa. Có nơi mang ðược cả cái chuông nhà thờ từ miền Bắc ði vào miền Nam.
Nó nhắc nhở người di cư phải tiếp tục nếp sống Ðạo xưa. Khi còn ở ngoài Bắc, họ ðã xây cất ðược khoảng 50 ngôi nhà thờ chạy dọc theo quốc lộ số một từ Hà Nội về Phủ Lý, Nam Ðịnh, Ninh Bình,Thái Bình và Phát Diệm.
Ngày hôm nay, tiếng chuông nhà thờ lại có dịp vang lên mỗi ngày, tiếng cầu kinh sáng tối như muốn nhắc nhở mọi người về cái cãn cước người công giáo di cư của họ.
Phải chăng ðó là những nét ðẹp nhất của nếp sống ðạo miền Bắc ðã ði vào miền Nam.
Trong môi trường hội nhập, thích ứng và ðồng hóa mang tính biện chứng, người dân miền Bắc vì sống tụ tập với nhau nên vẫn giữ gìn ðược một số sắc thái chung như tính chịu khó làm ãn, tính tần tiện lo xa, tính an cư với việc ổn ðịnh ðời sống và nếp sống chung như làng xã ngoài Bắc, có tôn ty trật tự. Nhưng một mặt khác họ vẫn phải thích ứng vào hoàn cảnh mới.

Cuộc hội nhập với cái còn cái mất.
Người di cư vào miền Nam ðược cái gì và mất cái gì. Có thể gần một triệu người ðã không một ai hỏi câu hỏi ðó.
Họ không cần hỏi, chỉ vì hình như họ chỉ có ðược mà không có mất. Thật sự cũng có mất – nhưng có thể ðó là những thứ ðáng mất.
Trong quá trình hội nhập vào xã hội miền Nam, tiếng nói miền Bắc, nhất là các từ ðể chỉ thị các ðồ dùng, các câu chửi có vần ðiệu, các lối nói mát, nói mỉa hầu như dễ bị ðồng hóa nhất. Hầu như sau này, không mấy người sử dụng nữa.
Nãm 1954, thường người ta chỉ nhắc tới cuộc di cư người. Cũng ðúng. Nhưng Người ði thì tiếng nói cũng phải ði theo Người.
Chữ nghĩa, tiếng nói miền Bắc cũng lếch thếch nối ðuôi nhau lên tầu há mồm. Chuyến ði gian nan của nguời di cư thế nào thì chữ nghĩa có lẽ cũng vậy.
Chữ nào ở lại, chữ nào ra ði, chữ nào còn, chữ nào mất. Chữ nào không ðược dùng nữa. Chữ nào rơi vào quên lãng. Chẳng ai còn tâm trí ðâu ðể lưu tâm tới ðiều ðó.
Chữ ðược di cư vào miền Nam, chở ði rồi, bao nhiêu chữ ðã rơi rụng, vung vãi dọc ðường. Bao nhiêu chữ ðã sống còn sau khi ðã hội nhập với chữ nghĩa bản ðịa? Ðó là những câu hỏi cần có câu trả lời.

Và phải ðợi 21 nãm sau ngày 30 tháng tư 1975, người viết bài này mới chợt cảm thức ra là có một sự mất mát ðáng kể- nếu không nói là ðến gần một nửa số chữ, các câu nói, các cách xưng hô tùy theo tuổi tác, tùy theo chức vụ xã hội, các cách chào hỏi, cách chúc tụng nhau trong dịp tế nhất, cách thức mời nhau trước bữa cơm, tục hút thuốc lào, cách xỉa rãng, cách ãn mặc..ðã không biết bao nhiêu ðiều sau chừng 10 nãm ðã ðổi khác hoàn toàn.

    Phần các từ, các chữ, tôi chỉ nhận ra sự thay ðổi khi có dịp ðọc lại các nhà vãn miền Bắc. Nhưng hình như cũng ít ai ðể ý ðến cái mất, cái còn của chữ nghĩa, vì có quá nhiều cái ðược lớn hơn.
Chẳng hạn, có những cái mất như chiếc khãn mỏ quạ miền Bắc không biết từ lúc nào ðã biến mất hẳn. Hàm rãng ðen dấu hiệu ðặc biệt của dân quê miền Bắc cũng dần dần không cón có dịp ðược nhìn thấy nữa.Người ta không còn ðược nhìn thấy chiếc khăn lượt quấn chữ Nhân trên ðầu các ông nữa. Tục hút thuốc lào của các ông cũng mất dần mà sau này họa hiếm mới thấy một số người còn hút. Tục ãn trầu cũng bớt hẳn. Những lối mời chào, khách sáo của người dần không còn nữa.
Trong nhà nay cũng thiếu những chiếc chiếu cạp ðiều, họa hiếm mới còn nhìn thấy những chiếc sập gụ gỗ lim.
Nhưng, chiếc áo cánh vải phin nõn không cài khua bó khít lấy thân thể người phụ nữ miền Bắc bên trong lộ ra dải yếm mới ðẹp và gợi cảm làm sao so với cái áo bà ba rộng thùng thình. Vậy mà chiếc áo cánh phin nõn cũng dần biến mất và chỉ còn ðược ghi giữ lại trong các bức ảnh nghệ thuật sau này mà thôi.
Nhưng có một ðiều chắc chắn nhất là chiếc áo dài miền Bắc xem ra trở thành cái ðược ưu thế thời thượng làm biến mất chiếc áo bà ba và chiếc quần ống rộng của xã hội miền Nam.
    Cũng xin ghi nhận cho rõ. Có ít nhất hai loại áo dài thông dụng ở ngoài Bắc. Một loại áo dài ở nhà quê có hai vạt ðằng trước và thắt núm ở khoảng giữa ngực. Loại này giống chiếc áo cánh không còn ai mặc nữa. Loại áo dài có hai vạt, một ðằng trước một ðằng sau mới trở thành thời thượng mà công ðầu phải dành ðể ghi ơn mấy ông chủ thợ may ở Saigon.
Họ đã có công làm đẹp gái Sài Gòn.

   Ngoài người thợ may, công ấy dành cho nhà thơ như Nguyên Sa hay Phạm Thiên Thư:
Nắng Sài Gòn, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh yêu mầu áo ấy vô cung
Hay:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay

Điều đó cho thấy rằng trong quá trình hội nhập có kế thừa, có thải loại nhưng cũng có chọn lọc. Chiếc áo dài nay là biểu tượng của hình nét, sự thướt tha, sự gợi cảm, biểu lộ phái tính trong biện chứng khép mở. Nó có tính cách mời gọi và đặt để người con gái vào một vị thế như một đối tượng được chiêm ngưỡng trong đó những đường nét hằn lên tuổi dậy thì.
      Chiếc áo dài con gái Việt Nam đẹp một cách quyến rũ vì nó thướt tha. Nó không cứng nhắc như áo Kimono của Nhật hay Đại Hàn.

    Theo họa sĩ trần Cao Lĩnh, áo dài phụ nữ Việt Nam trở thành ðẹp vì có gió. Gió làm tà áo em bay,gió làm em mở phơi, tươi sáng và mời gọi.
Sức sống, tình yêu như được hiển lộ, khai mở.
Em còn áo trắng ngày xưa
Trông anh muôn thuở bao giờ lệ hoen. 
(Thơ Phạm Thiên Thư)
Tôi đã không biết bao lần quên lối về bởi chiếc áo dài con gái Nha Trang, Huế, Biên Hòa, Sài gòn. Để rồi:
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần 
( Phạm Thiên Thư)
Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời  Ngày xưa … Hoàng Thị  của Pham Thiên Thư:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ..
Anh đi theo hoài
Gót giày thầm lặng
Đường chiều úa nắng

    Chẳng những thế, sau này chiếc áo dài nó trở thành tiêu biểu cho tuổi trẻ nữ sinh từ thành thị xuống ðến tận thôn quên. Và bây giờ thì nó trở thành cá tính dân tộc của toàn dân hai miền.

     Nhưng cùng một lẽ ấy, ðôi guốc mộc, chiếc áo bà ba rộng thùng thình với chiếc quần rộng ống của các cô gái miền Nam không biết từ lúc nào cũng dần biến mất.Cái tật trồng rãng vàng của người miền Nam cũng dần trở thành họa hiếm.
Còn cái còn, cái ðược nữa là một số món ăn Hà Nội.
Nhà báo Vũ Bằng ðã dành cả một cuốn sách ðể nói về: Miếng ngon Hà Nội. Trong ðó nay có những món ðã không còn ngon nữa và hầu tuyệt tích giang hồ như các món Bánh khoái, Rươi, Cốm Vòng. Nói chi ðến những món như ngô rang, khoai lùi, bánh ðúc.

    Ðó là những cái ngon của một Hà Nội nghèo ðói, túng thiếu,chạy lo từng bữa gạo.
Ông chỉ quên nói tới rau muống. Chỗ nào có dân Bắc Kỳ là có vài luống rau muống. Ðến ðộ rau muổng trở thành một ðề tài chế giiễu: Bắc Kỳ rau muống.
Sau này, rau muống trở thành món ăn của cả dân miền Nam. và ra hải ngoại, rau muống trở thành món sào thêm vào để bớt thịt, bớt cá.
Nhưng trong số món ngon Hà Nội không thể nào quên ðược. Ðó là hàng phở gánh Hà Nội ở bờ hồ Hoàn Kiếm, 5 ðồng một tô. Buổi sáng mùa ðông hơi se lạnh, mùi nước phở gánh bốc khói, thơm nức mùi nước phở. Chỉ ngửi ðã thèm rỏ dãi ra. Ăn phở sáng, còn gọi ðược là ãn quà là một tiêu xài xa xỉ phẩm.

   Vào ðến Sài Gòn, món phở trở thành món ãn khoái khẩu hay ãn quà sáng theo thói quen của người Sài Gòn.
Phở ðể ăn sáng rồi có lúc ðể ãn trưa và rồi cả ãn tối và ãn lúc nào cũng thuận tiện cả. Nhiều tiệm phở mở sau 1954 cạnh tranh cả với các tiệm Hủ tiếu và Mằn thắn mì hoặc Bún bò Huế. Nhiều tiệm phở bò trở thành nổi tiếng và ðông khách như phở Hiền Vương, phở Công Lý, phở Lý Thái Tổ. Cái ngon của phở là nước, là mùi, là gia vị.
Sau này, ra hải ngoại, phở bò nổi tiếng như một thứ McDonald của người Việt. Tôi ðịnh vinh danh món phở Hà Nội, nhưng vinh danh ai ðây, vì tìm không ra người khai trương ra. Theo nhiều người, món phở bắt dầu từ vùng Nam Ðịnh sau ðến Hà Nội. Rất tiếc, ngưởi viết không biết làm thơ như Nguyên Sa ðể ca tụng món phở.
Vì vậy, Phở không có ai dẫn lối dẫn vào vãn học.
Và nếu có ðào sâu thêm về những nét phong tục, nề nếp cũ, trong các sinh hoạt hội hè ðình ðám của người miền Bắc qua cuốn Nêp Cũ (11 tập) của nhà vãn Toan Ánh. Nhiều câu chuyện nay cũng chỉ còn là câu chuyện trà dư tửu hậu của vang bóng một thời.
Ngược lại tìm ðọc Vương Hồng Sển trong Hơn Nửa Ðời Hư hay Nguyễn Vãn Hầu trong Diện Mạo Vãn Học Dân Gian Nam Bộ (hai tập). Và nhất là tìm ðọc Sơn Nam trong các bộ sách như Hương Rừng Cà Mâu, Vãn Minh miệt vườn.
Người ta sẽ thấy rằng những câu chuyện dân gian lý thú ấy nay hầu như chỉ còn ðược ðọc trong sách vở.
Tất cả trở thành ðủ món hổ lốn trong một nồi súp trong ðó có sự gạn lọc, phế bỏ và hầu như bị vuợt qua.
Mặc dầu chúng ta cũng vẫn phải nhìn nhận rằng hai nhà vãn một Bắc, một Nam-. Bắc với Toan Ánh- Nam với Sơn Nam ðã góp phần làm phong phú hai nếp sống của hai miền.
Hiện tượng Meltinh-pot trong sự hội nhập, thích ứng của miền Nam và miền Bắc ngày nay phải nhìn nhận là ðều có thật, không chối cãi ðược.
Trong quá trình hội nhập như thế có cái mất, cái ðược. Cái mất có thể chẳng ðáng tiếc, nhưng cái ðược thì lớn quá.
Ðó là cái lớn làm nên cá tính, cái cãn cước người phụ nữ Việt Nam sau này khi ði di tản. Nay cần làm sống dậy cái vẻ ðẹp con gái ấy qua chiếc áo dài. Nhưng người ta ðả ðẩy nó ði một bước quá trớn, lộ liễu quá bởi vì nó làm mất cái vẻ ðẹp quyến rũ của biện chứng khép mở. Chiếc áo dài con gái hở mà vẫn phải kín.
Kín mà vẫn phải hé lộ, mời gọi. Không hiểu triết lý biện chứng này, nhiều nhà vẽ kiểu áo dài ðã biến thân xác phụ nữ thành cái ðẹp lồ lộ, sự bóc trần của thân xác mà không có khả nãng diển tả ðược vẻ ðẹp của thân xác mà yếu tố chính là ðường nét của thân xác.

     Tôi dám nói nhìn các cô ca sĩ trên Paris By Night, họ mặc mà như thấy họ cởi chuồng. Tôi cho là một lối ãn mặc kệch cỡm, thiếu tự tin.
Thà họ cởi truồng.
Trông các cô uốn éo biểu diễn, tôi có cảm giác họ mời gọi ta chơi họ chừ không phải ðể chiêm ngưỡng.Tự họ ðánh tụt giá người phụ nữ chứ không phải tôi.
Sự trình diễn nghệ thuật biến thành sự diễn hành phái tính mà ở nơi ðó gián tiếp nhắc nhở người nghe nhạc biến thành người nhìn cảnh cởi chuồng.
Và quan trọng hơn cả biến họ thành một món đồ chơi, dù là thứ đồ chơi đắt giá.

    Trong bài viết này, người viết lạm bàn về số phận chữ nghĩa người di cư sau 1954 và triển khai rộng ra về một giao lưu vãn học, vãn hóa, ðịa lý, chính trị trong cuộc Hội Nhập vĩ ðại của lịch sử người Việt.
Tôi thầm cảm ơn người miền Nam và coi ðây là một cuộc Nam Tiến ðến sau kế sách Thuận Hóa cách dây hơn 500 năm.

   Sự cọ sát ðầu tiên giữa hai miền là tiếng nói, chữ viết.
Tiếp xúc ðầu tiên giữa người hai miền là tiếng nói, nhất là giọng nói. Không hiểu nhau là một trở ngại cho cả hai phía. Có những giao tiếp trở thành gượng gạo ngỡ ngàng, người nọ hiểu lầm người kia.
Có sự không hiểu nhau một phần lớn là do giọng nói khác nhau.
Ngay tại miền Bắc, tiếng nói là thứ phương ngữ thay ðồi từng vùng.
Việc ði lại khó khãn giữa các vùng, không có giao tiếp trao ðổi ðưa dến trở ngại người ðịa phương này nói khác giọng với ðịa phương kia. Vùng Kẻ Noi cách Há Nội chừng vài cây số mà giọng nói rất khác lạ. Giọng họ líu lo như chim hót. Ngay hiện nay, tôi ở khu vực Montreal nói tiếng Pháp ðã trên 30 năm rồi, vậy mà khi họ nói với nhau, giọng ðịa phương tôi chỉ hiểu lõm bõm.
Đi vào từng vùng ở miền Bắc, có một số phát âm khác nhau, giọng người các tỉnh phía Nam thường nặng hơn giọng người Hà Nội.

*Dân Hà Ðông chuyển âm N thành L. Chẳng hạn cái nồi, cái niêu ðọc là cái Lồi, cái Liêu.
   * Dân Hà Nam ðọc vần Tr thành Ch. Chẳng hạn Giá Trị ðọc thành Giá Chị. Tranh Chấp thành Chanh Chấp. Nhưng có thể ðọc sai mà viết vẫn ðúng.
* Dân Ninh Bình trở xuống xuôi như Yên Mô, Phúc Nhạc chuyển dấu ngã thành dấu nặng, hoặc dấu hỏi.. Vũ thành Vủ hoặc Vụ.
   * Vùng Kim Sơn. Vần Tr thành T, vần L đổi thành N. Con trâu trắng thành con Tâu Tắng. Làm lụng vất vả thành Nàm Nụng vất vả.
* Vùng Thanh Hóa. Vần A đổi thành Oô. Tỉ dụ Ba Lòng đọc thành Ba Loong.

   Vì thế, lúc bắt ðầu giao tiếp, nhiều người dân miền Nam lúc ban ðầu coi người di cư như một thứ người ngoại quốc.
Ngoài tiếng nói khác nhau thì tự nó, tiếng nói, chữ dùng cũng thay ðổi từng thời kỳ. Vì Thời gian có tác dụng làm xói mòn mọi thứ… Như sắt thì rỉ, gỗ thì mục, hoa thì tàn, lá úa. Trong tương quan con người-người, ngay cả Tình yêu riết rồi cũng có thể khô trồi, tình dục sôi sục rồi cũng có thể trở thành thói quen nhàm chán. Kỷ niệm ðầu ðời tưởng không bao giờ quên cũng theo mầu thời gian mà trở thành nhạt nhòa.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị xói mòn.
Chữ nghĩa như một vật dùng một lần thì còn ngon, nhưng dùng nhiều lần thì mòn hay cùn ði. Như cái kéo cắt mãi cũng phải cùn. Dao bãm mãi cũng lụt ði. Khen ði khen lại ðâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau ðau, hay ít ra cũng chán.Ðùa dai hoài ðâm nhạt như nước ốc.
Hình như chữ nghĩa dị ứng với cái lập đi lập lại.
Tất cả những ngữ nghĩa trên chỉ ra một ðiều: Thời gian và sự ði lập lại có thể làm xói mòn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lý con người lại ưa chuộng cái mới, cái lạ. Như trong tình yêu, dùng chữ ðó với nhau lần ðầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm ðộng lắm. Dùng lần thứ hai thấy nhẹ ði rồi. Phải tãng cường ðộ nghĩa bằng những chữ lắm, nhất, số một. Có khi cả bằng tay chân vẫn chưa ðủ. Tãng lời thề..
Hình như vẫn hụt.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người.
Thời gian như thước ðo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, ðồng thời cành báo về cái hữu hạn của nó. Sự sợ hãi của Nguyễn Du về sự quên lãng của người ðời phải chãng cũng từ ðấy mà ra.
Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ ðã trở thành chữ cổ ít ai nhắc tới.
Còn nhớ, hồi mới di cư dzô Nam, người Bắc sửng sốt nhất, nghe lạ tai nhất là chữ Mã Tà. Mã tà thời tây là gọi là Hiến Binh, sau này trong Nam gọi là Cảnh sát, ngoài Bắc gọi là Công An. Không biết vì lý do gì, chữ Mã tà sau khoảng hai năm gì đó, không còn nghe ai nói nữa.
· Cũng vậy, theo sách vở, chữ manh nghĩa là nhỏ mọn. Người ðời chỉ còn nhớ váng vất khi nó ði với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh, manh áo, manh mún.
· Một chữ khác như chữ Khem, nghĩa là kiêng cữ. Nếu nó không cặp bạn với chữ Kiêng thì người ta không còn nhận ra nó như Kiêng khem ra nắng, ra gió.
· Chữ khác như chữ Lụn, nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong một số trường hợp hiếm hoi: Tim lụn có nghĩa tim ðèn cháy hết, lụn nãm, lụn ngày, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt.(2)
Mấy ai còn nhớ, còn biết, còn xử dụng những chữ cổ trên.
Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết đi ung mầm ra cái mới.
Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay ðổi và tiến bộ, mỗi ngày một ða dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn.
Với cái nhìn nhân bản thì chữ nghĩa có một cuộc sống, có dòng sinh mệnh, có thể mất, có thể còn, trôi nổi như ðời sống một người. Nhiều chữ nay ðã chết, nằm chôn vùi trong nghĩa ðịa của các Bảo tàng hay sách cổ. Nói ra cũng ngậm ngùi.
Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất còn này..(3)
Bạn ðọc thấy có nhiều chữ ðược xử dụng cách nay một thế kỷ ðã không còn ðược dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt trình, con nhà Annam, tấn tài tấn ðức, khia ðằng vãn minh.
Nhưng có nhiều chữ vẫn ðược dùng cho ðến ngày nay như Chữ Cha Sở và nhất là những chữ khá chuyên môn cách nay 70 nãm như giải phóng, phương diện thương mại và kỹ thuật.

Chữ và Nghĩa
Thời gian ðã là một nhẽ, cộng thêm dụng ý của người xử dụng chữ. Một chữ dùng nay bao hàm nhiều nghĩa, nhất là những từ chính trị. Từ nay, chữ có thêm không phải một mà nhiều nghĩa nghĩa.
Chữ dùng giống nhau, nhưng nghĩa thì mỗi người hiểu một nghĩa. Người miền Bắc dùng chữ mà lại chú trọng ðến cái nghĩa. Chữ thì chỉ có một, nhưng nghĩa thì có nhiều.
Cùng một chữ mà giọng kéo dài ra, thêm một ngữ từ nghĩa nó khác. Trong chữ: Cô giỏi lắm ðấy. Tùy theo cách nói, tùy theo dụng ý của người dùng mà có thể hiểu giỏi là chê bai, giỏi trở thành lời kết án nghiêm ngặt.
Và các nghĩa này, nó có quy luật của nó nằm trong bộ chữ như nói mát, nói kháy, nói ðãi bôi, khen mà ngụ ý chê.
Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chãng là một bằng cớ báo trước về sự sa ðà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và ðến cả số phận của nó nữa.(4)
Nhưng nói chung chữ nghĩa ở tầng cao- chữ nghĩa trong vãn học- của miền Bắc ðã thồi một luồng gió mới cho vãn học nói chung ở miền Nam.
Theo giáo sư Lê Vãn Lý, trong cuốn Le Parler Vietnamien, Chữ thay ðổi nghĩa khi ngữ vị của nó thay ðổi (5). Nghĩa biến hóa vô chừng.
· Nó đến không bảo sao?
· Nó đến bảo: không sao
· Nó bảo: sao không đến
· Nó đến bảo: sao không?
· Nó bảo đến không sao
· Nó bảo: không đến sao?
· Nó không bảo, sao đến?
· Nó không bảo đến sao?
· Nó không đến bảo sao?
· Bảo nó sao không đến?
· Bảo nó: không đến sao?
· Bảo sao nó không đến?
· Bảo nó đến, sao không?
· Không đến bảo nó sao?
· Không đến, nó bảo sao?

   Và cứ thế tiếp tục với chữ nó, rồi chữ bảo và cuối cùng chữ sao..
Viết mấy dòng này ðể vinh danh một người thầy của nhiều thế hệ sinh viên Hà Nội, Sài gon cho ðến nãm 1975. Cuốn sách Le Parler Vietnamien, luận án tiến sĩ Ðại học Sorbonne của linh mục, giáo sư Lê Vãn Lý ðược dịch ra 17 thứ tiếng trên thế giới.

    Giọng nói kiêu sa của người dân Hà Nội
Nếu tiếng nói miền Bắc có nhiều vùng và nhiều tiếng không dùng nữa thì ngược lại giọng Bắc Hà Nội trở thành tiếng nói kiêu sa của người Hà Nội.
Giọng người Hà Nội là một giọng không pha trộn, giọng thường cao lanh lảnh, lên xuống trầm bổng như trong âm nhạc, phát âm chuẩn, các sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, chữ nào ra chữ đó, xử dụng từ có quy pháp- nghĩa là có những chuẩn ngữ- nhất là trong cách mời chào, giao tiếp.
Không lạ gì, các ca sĩ sau này ðều cố luyện ra giọng Bắc ðể hát. Các giáo sư dạy trung học nói giọng Bắc thường ðược học trò thích hơn.
Chữ nghĩa người Hà Nội trong vãn chương, trong sách báo, tiểu thuyết lại trở thành thứ ngôn ngữ chuẩn ðược người ðọc cả hai miền chấp nhận và bắt chước theo.
Tiêu biểu là một số nhà văn, nhà thơ từ miền Bắc qua tạp chí Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Hóa Ngày Nay được nhiều người tìm đọc.
Văn học miền Bắc như thổi một luống gió mới, mang sinh khí và sự hào hứng cho văn giới và người đọc thuộc giới trẻ ở miền Nam.
Theo tôi, ðây là nét ðẹp thứ ba của Hà Nội như món quà ra mắt người miền Nam.
Chữ của miền Bắc trở thành thời thượng, thành khuôn mẫu vẻ ðẹp, nét tế vi. Chữ trong vãn chương Mai Thảo mượt mà với ma thuật chơi chữ, gợi ý, gợi hình ảnh. Ðôi khi có chút màu mè, làm dáng, ngay cả lập dị trong cách chấm câu, cách dùng chữ.
Nó chẳng khác gì sau này nhiều chữ của Trịnh Công Sơn trong các bài hát của ông cũng mang ấn tín của ông trong cách chọn từ, cách ðổi vị trí từ trong câu. Mỗi câu, mỗi chữ như một thông ðiệp gửi ði làm rung ðộng lòng người. Với chất thơ, chất nhạc, hồn tính, ðộng não, chất thiền, chất âm và ngay cả chất gợi dục, gợi lòng.
Nắng có hồng bằng đôi môi em- Môi em cho ta một cánh hồng, lụa là phút ấy chưa quên- Dài tay em mấy- hạt bụi hóa kiếp thân tôi.
Phải nói ðó là ma thuật của ngôn ngữ.
Chữ nghĩa biểu tượng cho cái nhìn về vãn hóa, phong tục giữa hai miền
Khi lần ðầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20 nãm xa cách. Người viết có cái cảm giác sung sướng ðến ngạc nhiên,ðến bỡ ngỡ vì nhớ lại những chữ nghĩa tưởng chừng ðã quên nay nhớ lại.
Sau bao nãm xa cách, hình như bắt lại ðược mình, nối lại ðược dĩ vãng thân thuộc, gần gũi. Chẳng hạn, lúc ðọc nhà vãn miền Bắc Vũ thư Hiên trong cuốn Miền Thơ ấu và nhất là cuốn Chuyện ở tỉnh lỵ, hay Tô Hoài trong O chuột (1942), Nhà nghèo (1944) và nhất là Cát bụi chân ai (1992), Nguyên Hồng, trong Cửa Biển và trong Tuyển tập Nguyên Hồng , Những ngày thơ ấu, Nguyễn Tuân trong Người Lái ðò trên sông Ðà, Nam Cao với Chí Phèo, Ðôi Mắt. Nguyễn Khải với Mùa lạc. Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần ðây thôi Nguyễn khắc Trường với Mảnh ðất lắm người nhiều ma.

    Bên cạnh đó, tôi cũng tìm đọc lại Vũ Trọng Phụng, nhưng thích thú nhất là đọc lại Nam Cao, Trần Tiêu và Bùi Hiển.
Tôi không biết phải nói thế nào, nhưng thật sự phải lấy làm tiếc vì những tác giả như Bùi Hiển, Trần Tiêu, Nam Cao hay Nguyên Hồng là những nhà vãn Hiện thực xã hội dầy tính Nhân bản lại không mấy người biết ðến ở miền Nam.
Ðọc họ mới thấu hiểu hết nỗi lầm than của con người. Ðọc họ mới hiểu hết ðược chế ðộ làng xã, chế ðộ phong kiến ðã trói buộc ðầy ðọa kiếp người như thế nào- Ðặc biệt nạn nhân Là người phụ nữ-.Nhưng ðàng khác, ðọc họ mới hiểu ðược tình con người, tính nhân bản giữa những người cùng khổ như thế nào.
Tôi cho rằng, nếu không đọc lại những tác giả thời tiền chiến, sự hiểu biết về xã hội xã thôn miền Bắc sẽ là một thiếu xót lớn.
Họ, những nhà văn, đã làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đã nghe, hoặc chính mình đã dùng và nay đã quên, đã không dùng nữa.
Người viết cảm động như một khám phá, như một sưởi ấm lại ký vãng đã quên.
Chẳng hạn thay vì nói, ông ấy bệnh nặng, sắp chết, hay ông ấy ðang hấp hối, ðã cấm khẩu, tay bắt chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu: Ong ấy sinh thì rồi thì thật trọn vẹn.Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn sách quê hương cũ tìm về, dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn ðược vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần lớn những thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị * ðoạn tuyệt * với TLVÐ. TLVÐ chẳng những ðoạn tuyệt với phong tục, nếp sống cũ mà cả với chữ nghĩa cũ nữa.
Như vậy, song song với nhóm TLVĐ, vẫn còn sót lại một dòng văn học ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày nay và cứ thế nó kéo dài đến bây giờ.
Và một lần nữa, nó lại phải đương đầu với những nhà văn trẻ, thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay sau nữa Hậu Hiện đại.
Cũng một cách thức tương tự, người ta tìm thấy ở miền Nam với Nhóm Sáng Tạo ðổi mới nội dung,giải phóng chữ nghĩa bằng cách xử dụng những từ có vóc dáng triết lý thời thượng.
Bên cạnh ðó có một dòng chảy vãn học chữ nghĩa như khe suối nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội nguồn, giữ lại bản sắc của mình với Sơn Nam, Bình nguyên Lộc và ðặc biệt nhất là nhà vãn Lê Xuyên.
Đây là một hiện tượng văn học có vóc dáng và đáng nể.
Các mất mát của dòng vãn học tiền chiến- mất mát ngậm ngùi.
Nhưng chuyện phải ðến ðã ðến. Càng ðọc lại các truyện của các nhà vãn miền Bắc thời tiền chiến, người ta mới nhận ra rằng nay ở trong Nam, các chữ ấy ðã không còn ðược dùng nữa.
Có nghĩa là chữ nghĩa và cả tâm tình, cả cái xã hội khốn khổ miền Bắc, nó không còn mấy ai nhắc nhở tới nữa.
Khi ðọc các nhà vãn này, xin chia làm hai giai ðoạn. Ta chỉ nên ðọc Nguyên Hồng, Bùi Hiển,Nam Cao, Trần Tiêu, Nguyễn Tuân về những tác phẩm họ viết thời kháng chiến, hay trước cách mạng tháng tám.
Giai ðoạn sau lại là một câu chuyện khác không cần ðề cập tới ở ðây

Các mất mát thông qua cái văn hóa chửi như một đoạn tuyệt với quá khứ phong kiến của miền Bắc
   Ngưởi di cư vào miền Nam ðể co thể hội nhập vào xã hội miền Nam, họ phải vứt bỏ thói quen chửi. Một thói quen rất lâu ðời, ðược chấp nhận và không ai phản ðối. Thuong la nguoi ta chui chung chung, nhung cung co luc am chỉ gian tiếp vào người này, người kia mà chỉ những người trong cuộc mới ðược.
Chửi vốn là sắc thái vãn hoá ðặc trưng của miền Bắc. Ðặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có bài bản, có nghệ thuật, có vần ðiệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc. Chửi hay như thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ãn.
Chẳng hạn, trong chuyện Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo chửi ðể lấy tiền uống rượu ðến tay sừng sỏ trong làng như lão Bá Kiến cũng chào thua.
Có những chữ nghĩa thuộc loại anh chị, kế thừa một truyền thống mở mồm ra Ðịt.. mẹ, ðịt bố, chửi có tay nghề ở miền quê. Vậy mà vào ðến miền Nam gặp anh Hai ở cầu Ba Cẳng hay các anh chị bến Tầu Sàigòn, chị Ba Cầu Muối, Chị Nãm chợ cá Trần quốc Toản ðành tắt tiếng.
Người di cư từ miền Bắc vào miền Nam học được thói quen không chửi nữa.
Hỉnh ảnh một phụ nữ miền Bắc, mặc váy, tay chống cạnh sườn ðứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ ðồ bồm bộp, chửi ra rả cả ngày là một hình ảnh chỉ còn xuất hiện trên Tivi ở miền Nam ðể chọc cười thiên hạ.
Chí Phèo, nếu chẳng may có di cư vào miền Nam thì chắc phải ðổi nghề.
Tất cả những tiếng chửi tục ðủ loại ðã có một thời khét tiếng và quen thuộc ở miền Bắc tỉ như Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha, bú cặc, bú buồi, ðịt nọ ðịt kia, liếm, sờ, chui. Không bao giờ ðược nghe nữa.
  .Trong suốt 20 nãm sống ở miền Nam, sống chung ðụng với dân miền Bắc, người viết chưa nghe, dù một lần họ dám ðịt nọ, ðịt kia nữa.

   Cùng lắm ðôi lần ðược nghe chửi trên Tivi vào những dịp tết (6).
.Vậy mà hiện nay có hiện tượng ngược chiều: Người miền Bắc ở Hà Nội họ chửi nhau om xòm trong các quan ãn, trong việc mua bán, Chỉ không vừa ý về giả cả là ðôi bên có thể chửi nhau rồi.
Họ còn mang cái nghèo khổ của người khác ra ðay nghiến:
Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ãn, cái uống làm ðầu. Lúc giận rủa nhau cũng mang cái ãn uống ra mà nhiếc móc nhau kể cũng không lấy làm lạ. Tỉ dụ diếc móc người ta như : nghèo rớt mồng tơi, nghèo lõ ðít, thí cho nó tý tiền, cứ gọi là ðói vàng mặt, ðói dã họng.
Nghe những chữ diếc móc trên đôi khi đau lòng còn quá chửi.
Vì thế, người ðời mới sợ tiếng diếc móc ðến cầm bát cơm lên ãn không nổi..Vì thế có tâm trạng khác nhau.
Khi nghe chửi, ta thấy tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục.
Mỗi chữ ðều gợi lên một vãn ảnh và không chữ nào giống nghĩa chữ nào .
————————————————————
Tất cả ðòi hỏi sự khôn ngoan, tính toán và chải ðời. Ðó là thứ vãn hoá chửi mà không ãn mòn bát mòn ðĩa ở miền Bắc không hiểu thấu ðáo ðược. Vào ðến miền Nam sau này, người dân miền Nam với nếp sống giản dị ðã trấn áp người miền Bắc, quy kết là khôn ranh.
Người Nam thẳng thừng nói: Bỏ ði Tám. Ðù má, nói gì thì nói mẹ nó ði cho rồi, vòng vo tam quốc hoài, mệt quá.
Vậy là phải dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ nghĩa.
Người miền Bắc di cư chỉ có mỗi một con ðường trong lối sống và cư xử mới là dẹp bỏ tất cả những từ chửi bới, diếc móc ở trên. Vì thế, mấy ai còn nhớ ðến những lối diếc móc trên.
- Dùng phương tiện phái tính :
Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của nhiều thứ, của đủ thứ đến cái gì xấu đích thị là của phụ nữ. Đến cái gì khen thì thật sự cái đó có lợi cho đàn ông. Khen tứ đức tam tòng là lời khen chết người, buộc chặt, trói chân người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen tiết hạnh khả phong là lời khen trớ chêu nửa khóc, nửa cười. Khen trinh tiết làm đầu là một lối khen họan, khen thiến không hơn không kém, chẳng khác gì hoạn quan.
Nói tách bạch ra, con C… là chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa. (9)

Chẳng hạn có những câu diếc móc nhẹ nặng ðủ thứ, ðủ kiểu xuất phát từ tâm ðịa ðộc ác, hận oán : người ðâu có thứ người..sáng bảnh mắt còn nằm trương xác ra. Ðàn ông nằm ðến bảnh mắt thì không sao cả. Dạy muộn cũng là một tội lỗi. Hoặc nặng hơn nữa : ðồ thối thây, nó bơi tro chát trấu vào mặt, con gái con ðứa, con gái ðến thì là ðộng cỡn, cô ấy cong cớn, những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống những mụ nạ dòng già ðời, da dẻ nó hon hỏn thế này.
Tất cả ðều nhắm vào phái tính hay ðĩ tính: Tự thân ðàn bà, phụ nữ sinh ra ðã có ðĩ tính  : có chồng có cái khổ của có chồng  : con ðó õn à õn ẹo, ðanh ðá lắm cơ, người ta bĩu môi chửi là gái nứng ði theo chồng (chỉ gái ðã ãn ở với người khác rồi), một cô gái giãng há, một lũ lĩ con gái, chữa buộm (chửa với người khác không phải với chồng ), chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ, mẹ cái hĩm, con bé tình ra phết, mà phải biết là ðỏng ðảnh.
Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con ðó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót ðến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là ðàn bà sồ xề, cô ấy chúa ðời là khỏe.
Bên cạnh ðó, có nhiều chữ ðể chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ như cái ðồ, cái ấy, cửa mình, cái lồn thì thô tục quá. Cái chỗ ấy mà thiếu chút chi cũng bỏ bố với thiện hạ: âm hộ vô mao, bần chí tử. Thiệt là khổ. Khổ ðầu, khổ ðuôi, khổ trên, khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Nếu chưa chồng lại có cái khổ riêng  : Chưa chồng có cái khổ riêng lại thêm cái khổ của miệng lưỡi thế gian: Già kén kẹn hom. Ãn mặc lơ ðễnh một chút cũng khổ: cái yếm xẹo xọ ðể trật ra cái sườn nây nẩy, cái người ðàn bà dại dột ðã nằm ềnh ệch ra ðấy, nói dại nếu mày chửa thì ãn nói làm sao, cái yếm cổ xây thật trắng, cái quần lụa buông chùng xuống tận gót, ãn bận sang ðến cô ðầu cũng không ãn ðứt, nó nhân tình ðến trãm thằng, bọn lý dịch chẳng anh nào không thậm thọt ra vào nhà nó, nó mặc áo cánh xát xí, nào yếm vải phin, nó tơ tuốt ghê lắm (diện).
Chẳng hạn, đàn bà chửa hoang đôi khi phải cạo trọc đầu, bôi vôi rồi đành bỏ làng mà đi.
Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con ðó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót ðến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là ðàn bà sồ xề, cô ấy chúa ðời là khỏe. Bên cạnh ðó, có nhiều chữ ðể chị bộ phận sinh dục của phái nữ như cái ðồ, cái ấy, cửa mình, cái lồn thì thô tục quá.
Cái chỗ ấy mà thiếu chút chi cũng bỏ bố với thiện hạ : âm hộ vô mao, bần chí tử. Thiệt là khổ. Khổ ðầu, khổ ðuôi, khổ trên, khổ dưới, càng dưới càng khổ.

   Kết Luận
Nhờ có cuộc di cư từ Bắc vào nam mà phụ nữ miền Bắc ðược giải phóng.
Có lẽ không ở ðâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức tạp lầy nhầy như miền Bắc. Mới ðây, trong một chương trình Vidéo, người viết thấy một cô ca sĩ trẻ ðược người ðiều khiển chương trình phỏng vấn.. Lúc phải trả lời, cô lúng ba, lúng búng, vì không biết phải xưng bằng anh, chú, bác hay nhà vãn với người ðiều khiển chương trình. Bác có vẻ già quá, anh thì có vẻ hơi xỗ xàng. Ông thì xa lạ. Cậu tớ thì xấc quá.
Trong cái cách học ãn, học nói của người Bắc thì bài học vỡ lòng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà không ðược bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi ðã ðành, theo quan hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xã giao nữa.
Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy ðẻ, thầy me, cậu mợ, ðằng ấy, cậu tớ, người nhớn, con nọỉ, con kia, huynh, ðệ, quan bác, thằng cu, con ðĩ, mẹ ðĩ nhà tôi, nhà con, ông mãnh, thằng trời ðánh thánh vật, thằng chết bãm chết bằm tùy trường hợp mà dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta còn có chữ Gia phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá ðệ, xá muội chỉ bực dưới. Bấy nhiêu lối xưng hô vào ðến miền ðất mới như lạc lõng , thi nhau bị “cáp duồn” hết. Không ai nói nữa.
Do sức ép hay do tự mình cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ, thấy rắc rối, thấy “không giống ai” thấy cần phải bỏ.
Có lẽ thấy cái không giống ai là lý do của sự ra đi không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều lắm. Cũng phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị giận, bị trù ếm nữa. Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ có dụng ý, tâng bốc nịnh nọt.
Nó đã dần biến mất khi vào đến trong Nam.
Thật ra, nó chỉ biểu tỏ một xã hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở miền Nam.

Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn không thừa hưởng di sản của một xã hội phong kiến, hủ lậu. Xã hội đó lo kiếm miếng ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm đến kẻ trên người dưới..
Xã hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống của thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống trị. Làng xã mở toang, không hàng rào vây kín.. Xã hội cũng mở toang mọi phía mà dân là chính, dân là chủ.
Sự xưng hô vì thế giản tiện và tuỳ tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má thì là ba má. Khi cần gọi chung là ông già bà già.
Nội việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo tinh thần tự do, dân chủ.

  Người Bắc từ xa tới, lẽ nào không thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ý theo.
Để gọi một người ở, người trong Nam chỉ gọi chung chung là người làm, vừa dản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. Vì thế, nếu còn ai gọi cụ đốc thì thay vì là một trân trọng, nó đã biến thành trò cười, mai mỉa.
Người Hànội có một thói quen khá kiêu xa (Theo Vũ ngọc Phan trong Nhà vãn hiện ðại ) là thay vì gọi tên một người, họ lại hài chức vị người ðó ra mà gọi.
Gọi như thế vừa là cách vinh danh người được gọi. Phần người gọi cảm thấy hãnh tiến vì có quan hệ quen biết với người được gọi. Chẳng hạn: ấy quan đốc nhà tôi, hay ngon hơn nữa : ấy anh Huyện X.
Chữ nhà tôi, tự bầy tỏ cái huyênh hoang, hãnh tiến, thấy sang bắt quàng làm họ. Thật đáng ghét. Đã là đốc học, đốc tở mà còn kèm theo chữ cụ hoặc chữ quan nữa thì rõ ràng là xu nịnh: quan đốc tờ, quan đốc học, cụ Nghị, cụ Hàn, cụ cử, cụ ký, cụ Thượng, cụ Tú, thầy đội xếp, thầy cai, cụ lang ta, cụ bang tá, thầy quản, anh Khóa, anh cung văn ( thư ký riêng của các gia đình giầu có), thầy đồ, sinh đồ hay cống sĩ, quan hiệu, quan châu, quan phủ doãn, hiến ty, dề điệu, quan thừa sứ, ông Hiến binh, ông Trùm, ông Chánh trương, ông hậu, ông Hàn, ông cửu, cụ Thượng, ông Lý, cụ Chánh.

   Những chữ dùng để chỉ kẻ hầu người hạ đã tùy hoàn cảnh mà thay đổi.
Trong nhà đạo, khi dùng chữ Kẻ tôi tớ chỉ là lối nói khiêm tốn của kẻ bậc dưới với kẻ bậc trên như cuối lá thư thường viết *kẻ tôi tớ hèn mọn *. Chữ con nhài, nàng hầu tương đối lâu đời nhất được dùng trong các nhà quan.
Sang đến thời Pháp thuộc có chữ con sen, chị vú, anh phu xe, rồi anh tài xế..
Những chữ ðể chỉ việc chời bời như : ði nhà thổ, nhà chứa, me tây, làm ðĩ..
Trong Nam giản dị gọi chung là Gái ðiếm.
Những chữ chỉ nhà nó (chỉ vợ hoặc chồng ). Chữ người (chê bai). Nguời khó tính lắm ạ ðòi phải mua rau lấy Người mới xơi ðược (trích trong Chiểu Chiểu của Tô Hoài ).
Quan anh (ý nịnh bợ) có tắm không, mở bốn chục trai nước suối Viten ðổ vào thùng rồi pha nửa chai cô lôn ðể cụ giội lại, dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ ðể chớp bóng ðấy nhé (Trích Giông Tố của Vũ trọng Phụng ).
Thêm một chữ cô ả cũng mất tiêu không ai dùng nữa.
Một số chữ của nhà ðạo cũng không ðược dùng nữa : Thầy cả, cụ, cố, thầy kẻ giảng, ông bõ. Nam Cao ðã viết riêng một chuyện nhan ðề : tư cách mõ. Nhà vãn cho biết tại sao gọi là mõ, rồi lềnh, rồi Sãi. Chữ ông Trùm, ông Chánh Trương cũng không ai dùng nữa. Một số chữ bên Phật giáo như ông Bụt, ông sư, ông vãi, bà vãi, chú tiểu cũng ít ai dùng nữa.
Có nhiều người muốn phục hoạt lại chữ Bụt, ông Sư như chủ trương của thầy Nhất Hạnh.
Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời của nó, thời ðể sống và thời ðể chết.
Khi nghĩ ðến thân phận người phụ nữ miền Bắc, tôi muốn ðứng ra, nghểnh cao cổ, hò hét bênh ðàn bà cũng không ðược.
Vì tìm đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông.

  Thử xem nào: ðồ ðàn ông ðĩ ngựa. Nghe không ổn. Ðồ lẳng lơ. Cũng không nghe ra tai. Cuối cùng tìm ra ðược vài chữ ðáng ðời : Ðồ súc sinh và một chữ dấm da dấm dớ : Ðồ cha cãng chú kiết. Thật ðến là tức, tự nhiên xổ ra ðược một lô chữ cho hạ hoả : ðồ du côn du kề, ðồ ãn mày ãn xin, ðồ gì nữa nào.. ðồ lính tráng. Chẳng hạn, ðàn bà chửa hoang ðôi khi phải cạo trọc ðầu, bôi vôi rồi ðành bỏ làng mà ði
Cái may của phụ nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đã không bao giờ còn bị ai diếc móc như thế nữa.
Ðó là cuộc giải phong thân phận người phụ nữ mà bình thường ðôi khi cần cả một thế kỷ mới tranh ðấu ðược.
Tôi thiển nghĩ ðây cũng là một mặt tích cực nhất mà ít ai lưu tâm cho ðủ. Nó phá vỡ những tồn tích của phong kiến, xả hội làng xã ðóng kín sau lũy tre làng của xã hội miền bắc.
Làng miền Bắc là một ðơn vị kinh tế tự lập về mọi mặt từ sản xuất ðến tiêu dùng, tự cung, tự cấp với một số ngành nghề cơ bản như cầy cấy, ðánh cá, nuôi tằm, dệt vải, trồng trọt, chãn nuôi. Về ðịa lý, mỗi làng mỗi xã có lũy tre bao bọc, có cổng làng ðóng kín vào buổi tối không ai ra vào ðược. Trong mỗi nhà cũng có rào dậu, cửa ngõ, cửa ðóng then gài.
Về mặt xã hội là một tổ chức ổn ðịnh, ðã ðịnh hình và khép kín. Làng này không giống làng bên cạnh, có ngành nghề riêng biệt, cha truyền con nối. Chẳng hạn có làng Cốm Vòng,, gỏi Bằng, Tương Bần, Cá rô Ðầm Sét, Bún Mọc.
Người trong làng là nơi mà một ðứa trẻ sinh ra, lớn lên, ðược ðào tạo và nuôi dưỡng trong tinh thần xã thôn mà chúng trở thành máu mủ, ruột thịt.

     Cho nên sự trừng phạt nặng nhất ðối với dân làng có thể là phải bỏ làng mà ði. Ra khỏi làng là rơi vào tình trạng tha phương cầu thực.
Cái lợi của làng là ổn ðịnh và trật tự, tính kế thừa truyền thống. Tuy nhiên cái hại của chế ðộ xã thôn là nạn cường hào ác bá, trên ðè dưới mà nạn nhân là thành phẩn nông dân nghèo khó hoặc ðàn bà con gái. Ðó là câu truyện Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Hay câu chuyện  : Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Nằm vạ của Bùi Hiển. Chí Phèo của Nam Cao. Gần dây có câu chuyện của một nhà vãn miền Bắc nhan ðề  :Mãnh ðất lắm người nhiều ma.
Về mặt vãn hóa thì miền Bắc ðược coi như cái nôi của vãn học mà tỷ lệ thi ðỗ thường cao nhất nước, nhất là 14 vùng chung quanh Hà Nội.
Chẳng hạn, ðàn bà chửa hoang ðôi khi phải cạo trọc ðầu, bôi vôi rồi ðành bỏ làng mà ði.
Nếu miền Bắc là cái nôi của vãn học thì miền Nam là miền ðất hứa. Nó hứa ðủ thứ. Nếu miền Bắc chỉ là những tiếng thở dài với nước mắt và mồ hôi thì miền Nam nó tạo ra một bản sắc cá biệt mà ta gọi sau này là Vãn minh miệt vườn.hay theo Sơn Nam gọi là Vãn minh Sông Rạch với nếp sống Hạ Bạc, một ðặc trưng của ðồng bằng sông Cửu Long.
Chữ nghĩa có thể không ðầy một cái lá me, nhưng biết trọng nghĩa, có khí phách của lớp người anh hùng hảo hớn. Tính nết thì cương trực, bảo có là có, bảo không là không, một chữ là một nghĩa, không quay quất, xiên sẹo.
Trên bước ðường lưu lạc của kẻ lưu dân,. Tình bạn là cao quý nhất cho nên ở ðâu có nhiều bạn thì quê hương ta ở ðó.
Hai nếp sống, hai nếp nghĩ Bắc Nam tạo ra những cú sốc vãn hóa, nhưng phần lợi là bổ túc cho nhau trong một liên hệ hỗ tương.
Nhưng theo tôi, kẻ hưởng ðược lợi nhất trong cuộc sống chung giữa Nam và Bắc lại chính là người phụ nữ miền Bắc..

Về mặt địa lý chính trị, trong Nam không có khung cảnh làng xã đóng kín- không có lủy tre phân định ranh giới từng đơn vị làng- Làng là một đơn vị mở mà trong mùa nước nó san phẳng địa lý ranh giới giữa làng này với làng kia.
Dân tình trong Nam phần đông là dân của miền đất mới, đến từ nhiều vùng.. Phong tục, tập quán, đạo lý có phần cởi mở
Hình như không mấy ai nhận ra điều này. Nhưng lại chính là sự thật. Từ nay, người phụ nữ miền Bắc không còn là một thứ vật cho người ta khinh miệt và xỉ vả.
Họ nay có thể trở thành ngang hàng với ðàn ông trong quan hệ vợ chồng, quan hệ gia ðình và quan hệ xã hội. Những tục tảo hôn không còn nữa. Chuyện cha mẹ ðặt ðâu, con ngồi ðó cũng dần dần không còn là một cưỡng bách trong hôn nhân.
Trước khi chấm dứt, người viết bài này lọc ra một số chữ miền Bắc mà nhiều chữ nay có dịp đọc lại cũng thấy hay
.Chữ nghĩa quả đúng là có cái thời của nó: Thời để sống và thời để chết nói ra như một luyến tiếc thời đã qua.
Những chữ tôi trích dẫn sau đây, nếu biêt dùng, đúng hoàn cảnh của nò cũng có giá trị thời sự và hiểu biết lắm. Để lảm phong phú tiếng Việt, chúng ta nên thu gom lại trong gia tài ngôn ngữ tiếng Việt.
Chẳng hạn những chữ như sau: Nó tẽn tò, sợ vãi ðái, nhịn như nhịn cơm sống.     
Mấy từ này lâu lâu gặp một bà Bắc kỳ ðặc dùng lại nghe cũng sướng cái lỗ tai. An uống vốn là lẽ sinh tồn của nguời dân Bắc nên ðược xử dụng tràn lan như : ãn phải ðũa, ãn cơm khoán, ãm cơm tứ chiếng, ãn chực, ãn ba vực như trong câu : ãn chẳng bao nhiêu, ãn vạ hay nằm vạ. Tuyền là thứ ðặc sản cả. Quý lắm ðấy. Thứ thiệt, thứ ròng chính hiệu con nai. Nào là bữa lưng bữa vực, rồi bà thổ ra, chả mấy khi, thế mà cấm khinh người, ông ta chúa pha trò, ông bỏ lỗi cho tôi, tôi nói khí không phải, khắc xong. Mấy từ này dùng ðến là ðắc ý. Nó ðứng một mình thì chả có gì ðáng nói, nhưng nó ðứng trong toàn cảnh một câu nói thì thật hay. Khí không phải vừa có vẻ nhún nhường, nhưng ðầy thách ðố và sẵn sàng ðối ðầu không thương nhượng. Này, lại tiếp một lô chữ nữa ghi lại kẻo quên : Con ðàn cháu ðống, ốm thập tử nhất sinh, cứ chõ mồm vào, le te chạy vào, bà ðã mà cả mà cập, rõ mồn một, việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong ( trích trong Những ðứa con trong gia ðình, Nguyễn Thi ) 
   
    Về muộn mấy, vào chơi cái ðã nào, người chết như ngả rạ, quái nhỉ, quái nó ði ðâu, tối bức như lò than, người con gái trắng lôm lốp, ra sự rằng mình dỗi, giãy lên như ðỉa phải vôi, ngã lộn tùng phèo, lớn phổng phao, con ði ðằng này, ðằng này là ðằng nào, trả lời mà như không trả lời ( Không cho biết là ði ðâu, có ý dấu, có thể là nói dỗi) u hỏi làm gì những việc ấy, mặc con, không ðủ mặc thây, cái ðám ma cũng ðường trường lắm, con ðẻ rứt ruột ra còn thế, lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát, thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt lên như người say thuốc lào, nhà cũng hoàn cảnh lắm ( Chữ này có thể là chỉ ðược dùng sau 54), khối anh, ông ðã diện oách, một tay bốc trời, nói khe khẽ, cô suýt bật cười, nào bác cả ra ðây, ðàn ông ðàn ang có biết gì ðâu, giặt giũ cơm nước chợ búa, trêu ngươi ai, cài toang xong ( ðóng cửa truồng trâu ), ngã xiểng liểng, nó khó bảo, ði ðong chịu, khi cần tiền vẫn giựt nóng, cái ngữ ðó, cái cơ ngơi, Nói ðến hơi hướng cái danh ông Dề, tao úp ðược con chó rồi, ði húi tóc, ra sự rằng mình dỗi, ði ở trọ, mẹ hờ con ( ru con, chữ cũng hay lắm ðấy chứ ) suốt ðêm, giã ðám, tuổi mụ, cầm bằng ông ta mà giận không che chở cho nhà ta ðể nhà binh Nhật xung công tất cả thì cứ xung công ( trích trong Cửa Biển của Nguyên Hồng ), nhưng nay mới tường mặt ( rõ mặt ), hàng bồ chuyện, bồ chữ, kíp thợ, ði ðóng ðáng,( Trích những ðứa con trong gia ðình, Nguyễn Thi ), xách ná thun ði bắn nó, làng vào ðám, thổi mòi rơm, trâu làng tôi mót ðâu ỉa ðó, chú Lựu quẩy hai gánh ði mót cứt trâu trên ðường. Hai chữ mót dùng trong một câu mang hai nghĩa khác nhau.   
   Chuyện ở tỉnh lỵ của Vũ thư Hiên). Châm ðóm, thông ðiếu, xe ðíếu, nõ ðiếu, quán ðỏ ðèn suốt sáng,bắt rận, bắt chấy, cứ bỏ rẻ, ra ao tắm, ta nhắm vài miếng, mâm cỗ, bà ấy hay ốm lửng ( Giả vờ ốm ), chẳng biết ðâu mà lần, bật hồng là gì nào, ðốt ðuốc ðấy, tôi chạy ù xuống bếp, chú nghiêng ðầu dòm ông , có như vậy, nhược bằng không, gì chứ cái ấy không ðược, cô Gái là người vắt mảnh sành ra nước, nhưng cái khoản rượu bao giờ cũng biện ðủ, tháng chạp còn gọi là tháng củ mật ( tháng trộm cướp như rươi ), phóng * bút chì *. Không phải cái bút chì ðể viết ðâu( dùng cái mai buộc vào một sợi thừng dài dùng ðể phóng vào ðối thủ), có ãn phải có trả, sợ cô quở, ði biệt tãm tích, mời ông xơi, con mắt cùi nhãn, chơi ðánh chắt, những chùm quả lúc lỉu trên cành, chơi ðố lá, ðời thủa nhà ai, nhựa sung ðược dùng vào vô khối việc, sạch như ly như lau, mời ông ðưa cay, những ngày rau lụi ( hiếm rau), tôm he giã lấy nước ðánh lòng ðỏ trứng gà giả làm yến ( 
     Trích Thời xa vắng, Lê Lựu ), lại gắp vài miếng , từng rủa không thiếu một lời, giỗ sống rồi, nói không ngoa, ðược mấy nả, không có cái chân ðảng trong làng, ông ðứng chân chủ họ, ông Phúc ðã ðánh trúng huyệt, trong việc làng, phần ðầu gà má lợn , hôn nhân ðiền thổ, vạn cố chi thù, ðã có người lân la hỏi chuyện gia cảnh, thế là cạch không ai dám hỏi, cạch ðến già, có những tiếng thật hay như : có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt ra, thế mới biết sông có khúc, người có lúc, trống ðánh ðến hỏng dùi, ðã trót phải chét, tôi ðã trót ðẻ ra ông, chữ trót ði liền với ðẻ ra ông mới diễn tả ðược nỗi thất vọng như thế nào của ông bố ( Tả trong một trận ðấu tố), rửa qua quít, rán cá, thịt nạc kho rim, ãn uống húp háp xì xoạp, chửa xong, ðánh chén, cơm ðèn, cơm ðóm, cơm sáng trãng, có khi ãn cơm khan chỉ chan nước mưa, nước vối, ðộng thớt, hễ bên ðó ðụng ðũa, ðộng bát là biết ngay, muốn ãn thì lãn vào bếp, lên ãn boóng ðược nhiều bữa nhờn môi . Thật hay. ãn giả miệng, không dè, cái ðói giáp hạt, nấu cháo ðộn rau tập tàng, không dư dật, mấy ông uống nước cả cặn, ãn tợm lắm, con tì con vị ðược ðánh thức, cứ nhao nhao lên như chào mào ãn dom, con nào cũng lành chanh, lành chói, mồm nãm miệng mười, Biện là tên cúng cơm , chỉ có hai bữa cơm ðèn, làm ãn giật gấu vá vai, nó vác rá ðến xin ãn trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài,rách như tổ ðĩa, người từ dưới xuôi, người trên mạn ngược, ãn hại ðái nát, họ lùa ra sân, lùa bát cơm vào mồm. Hai chữ lùa ðều có nghĩa khác nhau. Khóc như mưa như gió, sắc như tiếng dao cạo vào tinh nứa, nghe ðến ghê cả mình.

Có chữ nghe ðến lạ:
 dù có mùa ðông rét chết chim, hay * máu gái ðẻ * nó bất thường lắm hay vợ dậy lau lưỡi (lần ðầu tiên người viết thấy dùng như vậy ) và si con ðái (cũng ðắt lắm ) phải lai (ðèo sau xe ) vợ ðến sở, anh của Tuyên ðã ðánh xe ði ðón, những cái hắn sợ là hão cả, thế nào là mềm nắn rắn buông, ngồi chắp chân bằng tròn, chỉ nhớ ang áng, người ðã thất cơ lỡ vận, thì ra già néo ðứt giây, những thằng tứ cố vô thân giết ði thì dễ, anh bứa lắm, mỡ gầu lực xực, không chanh cốm, một thời ðã xa lắc xa lơ, con có nói gian thì trời chu ðất diệt, chúng cháu không dám chắc lép, nhưng quả là ít vốn, Bá Tứ ngồi rười rượi nhảy xuống trẫm mình, anh với Châu cọc cạch (ðộc thân,ám chỉ như ế vợ ) quá, bà bón cơm cho cháu, bà ãn cả thể nhá, sao im ắp ðến thế, cái máy ảnh cà khổ, xin dành cho chị tất, cái ô tô phanh ðến két một cái, bộ dui mè, có gì không nên không phải bảo nhau, sợ thọt dái lên cổ, thôi ta ãn khan một cái, thế hệ chém to kho nhừ ( lấy ãn no làm vui rồi )ụ, có ông chồng hâm, chị vẫn gọn gàng như người son rỗi, gạo vừa ðỏ vừa dớn, dáng chừng chị cả mấy lần nhấp nhỏm ðịnh nói, cái cạp sổ ruột, quanh nãm hết dật tạm lại vay nóng, làm lắm thì chầy vẩy ra chứ ãn thua gì, những thứ ấy chẳng kiếm ðược mấy nả tiền, bác Tú Mỡ ngày ngày chãm chút lau xe ðạp rồi buộc thừng treo lên, ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, không ðể bánh xe chịn ðất, quay ði quay lại, làm chân ðiếu ðóm.

Quả thực chữ nghĩa nó phiền hà thật!!!

Viết bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ mong người Việt học cái hay của mỗi miền, tìm ðọc ðể làm giàu cho vãn học miền Nam.

Bài viết này mở ðầu cho cuốn sách vãn học miền Nam của tác giả sắp xuất bản.

© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt

—————————————————–
Chú thích:
(1) 50 năm Bắc Kỳ di cư, 1954-2004
(2) Trong từ điển Từ Việt cổ, nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hànội 2001 các tác gia Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện cũng đã thu tập được gần một ngàn chữ cổ như các chữ vừa nêu trên.. 
(3Trong lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm 1907 có những câu như sau:
” Bổn báo kỉnh cáo, tòa báo đã ước ao cho con nhà Annam, đua nhau tấn tài, tấn đức, thông phần đạo, ngoan việc đờ. Tờ báo có ý khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho mọi bề, việc đạo việc đời đều thông thuộc.”
Xin trích dẫn một đọan khác :
” Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt trình đầu hết mà xem thử, như ai bằng lòng mua thì đem ba đồng bạc đến mượn cha Sở mua dùm..”
Trong một trả lời bạn đọc, chúng ta nghe thử lời rao sau đây :
” Bổn báo có nhận được một mandat của một ông nào đó không đề tên, không đề địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi báo .”
Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L!Impartial viết vào ngày 20-11-1929, ta thấy lối viết đã nhẹ nhàng thông thoát hơn :
” Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ thuật chỉ là một huyền thoại.”
(4), (5): Lê Văn Lý, Le Parler Viet namien và Sơ thảo ngữ Pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, 1968
(6): Rất tiếc, nhà văn Toan Ánh đã né tránh vấn đề chửi tục của miền Bắc.
(7) Tùy theo trường hợp, còn những chữ diếc móc tuỳ thuộc cấp độ nặng nhẹ tùy thuộc rất nhiều vào tình huống, vào giọng nói, và nhất là vào người nói. Có những điều rơi vào miệng người này nó nặng trở thành chết người, nặng như búa bổ. Nhưng ở người khác thì lại chấp nhận được. Chắc là nhiều người đã có kinh nghiệm mấy bà mệnh phụ gốc Bắc, chỉ cần bà khen chê, kéo lê cái giọng thưỡn thẹo mà người viết ở đây đành chịu không cách chi mô tả cho đúng được. Cứ thử rồi biết. Chẳng hạn : ăn phải đũa nhà người ta, đồ ăn bám, thứ đó được mấy nả, theo voi ăn bã mía, có khối nó chịu nhả cho đấy, đồ đi bòn của, đồ tha phương cầu thực. Cho ăn uống ở nhờ đến lúc canh không lành cơm không ngọt thì rủa : ăn mòn đũa mòn bát nhà người ta, ăn chậm như sên, bà ấy nói như móc họng đến gần phải mửa cơm ra mà trả lại, thôi thì cũng phải vắt mũi đút miệng, được bữa hôm lo bữa mai. Tất cả những lối diếc móc, nói bóng nói gió chẳng hiểu bằng cách nào chúng biến mất. Người viết cũng không hiểu tại sao nữa. 
(8). Con đĩa giẫy trở thành ý niệm cứ quýnh cả lên. Và cứ như thế có những chữ khác cũng theo quy trình đồ vật – ý niệm như: đồ nỡm, thằng nỡm, đồ giở quẻ, chạy như chó dái, nó cứ trêu ngươi, dấu như mèo dấu cứt, cứ ngồi chầu hẩu ra đó, tưởng kín bưng kỳ tình ai cũng biết, nói chua như dấm, chua lòm lòm, nói không đâu vào đâu, không có đầu cua tai nheo gì, thằng đó ba lăng nhăng, chẳng đâu vào mới đâu, làm gì cũng lau cha lau chau, đồ láu cá láu tôm, cứ lững tha lững thững, đứa nhãi ranh, vênh vênh váo váo. Chữ theo voi ăn bã mía gợi lên một văn ảnh rõ rệt : theo đuôi chỉ ăn đồ thừa, đuôi thẹo. Các chữ như : chỉ đâm ba chầy củ, đồ láu cá láu tôm, vênh vênh ngậu xị lên, đồ cám hấp, ngu như lợn, đồ miệng năm miệng mười, đồ dở hơi, quá thể lắm, đồ phải gió ở đâu, chuyên môn nói kháy, nói leo, cái giống nhà mày, thứ đó được mấy nả, trốn như trạch, đồ thông manh, đồ ông mãnh, đồ đi bòn của.
(9) Những lời nguyền rủa cũng lấy nữ giới làm đối tượng, mà đặc biệt do chính đàn bà rủa đàn bà. Quan niệm trọng Nam, khinh nữ của thời phong kiến tồn tích lại đẩy xô thân phận phụ nữ thành một phụ phẩm thấp kém, hèn hạ dựa trên những thói đời bất công, dựa trên nền đức lý hủ lậu giả hình, man trá đẩy họ xuống đất bùn


No comments:

Post a Comment