- Đây
 là chuyện tình có thật 100/100 bao gồm cả vị trí, địa danh, không gian,
 thời gian và tên tuổi của nhân vật, được viết lại sau gần 40 năm miền 
nam Việt Nam thất thủ. Hy vọng chuyện này như một lời tâm sự với tuổi 
trẻ hôm nay về tình yêu và trách nhiệm trong hoàn cảnh hiện nay của đất 
nước. Mất nước là mất tất cả.
30 tháng 4 năm 1975 cộng sản chiếm Sài Gòn, hai ngày sau tôi quyết định 
trở lại Đà Nẵng để tìm lại mẹ và thân nhân đã thất lạc trong cuộc di tản
 ở Đà Nẵng ngày 29 tháng 3 năm 1975 khi cộng sản tràn vào thành phố. Nhờ
 ơn trên tôi đã tìm được mẹ và tất cả người thân trên con đường định 
mệnh này.
Sum họp được với gia đình hai ngày thì tôi bị công an Đà Nẵng đến bắt 
tận nhà và đưa vào trại tạm giam Kho Đạn ở chợ Cồn/Đà Nẵng. Chuyện bắt 
bớ này diễn ra một cách bình thường và đơn giản, đơn giản đến độ người 
công an đến bắt tôi phải ngạc nhiên hỏi tôi rằng:
Anh đã biết trước mình sẽ bị bắt?
Tôi trả lời:
Vâng, tôi biết.
Anh ta nói tiếp:
Tốt nhé, thế là anh đã biết tội của mình!?
Tôi trả lời:
Không phải vậy, tôi chỉ làm trách nhiệm cuối cùng của một người thua trận. 
Để tránh phải thấy cảnh chia ly bịn rịn của người thân tôi thúc anh ta:
Thôi, chúng ta đi. 
Không hiểu anh ta có hiểu câu trả lời của tôi không, nhưng sau khi nhìn 
tôi bằng một ánh mắt kỳ lạ, anh ta đưa tôi ra xe và chở tôi vào trung 
tâm tạm giam Kho Đạn bằng chiếc Vespa tương đối còn mới (chắc là chiến 
lợi phẩm sau ngày chiếm được Đà Nẵng) của anh ta. Trên đường đi tôi hoàn
 toàn không quan tâm đến anh ta và sẽ đến đâu mà chỉ chú tâm dành chút 
thời gian còn lại ít ỏi của mình để nhìn Đà Nẵng vì tôi nghĩ rằng có thể
 đây là lần cuối cùng tôi thấy được thành phố thân yêu này.
Tại trung tâm tạm giam Kho Đạn chợ Cồn, tôi bị giam vào nhà Bệnh Xá 
thuộc khu A (nhà nầy trước đây là bệnh xá của trung tâm cải huấn Chợ Cồn
 Đà Nẵng, sau khi cộng sản chiếm được Đà Nẵng, do số người bị bắt vào 
đây quá đông nên họ đã biến bệnh xá thành nhà giam để nhốt người). Nhà 
này và khu A của trại tạm giam tương đối dễ thở, có thể đi lại thông 
thương với nhau, và có thể tiếp xúc chuyện trò với nhau chút đỉnh, ban 
ngày thì dùng chung một dãy nhà vệ sinh, lối đi vào nhà vệ sinh là con 
đường luồng ở giữa (nằm sau lưng các phòng của khu A và bên hông của 
Bệnh xá). Ba khu còn lại là khu B, khu D (nhốt tù chính trị), khu C 
(nhốt tù hình sự) thì bị cách ly.
Ngay ở đầu khu A, cách vọng gác và nội cổng của trại giam độ 5 mét 
(meter) có một cây mù-u, gốc lớn hơn vòng tay của một người và tán rất 
rộng, ban ngày tù nhân khu A muốn đi vệ sinh phải đi ngang qua cây mù-u
 này, còn ban đêm tất cả tù nhân phải đi vệ sinh ngay trong phòng của 
mình. Tù nhân khu A và Bệnh Xá thường dùng gốc cây này như một điểm hẹn 
để kín đáo trao đổi tin tức với nhau. Riêng đối với tôi, cây mù-u này 
giống như cây bồ đề của Đức Phật, là nơi tôi ngộ được tình yêu và tội ác
 là hai vấn đề mà trước đây đối với tôi vốn rất mơ hồ.
Dưới gốc cây này tôi đã tìm được một bóng hình vĩnh viễn yêu thương và 
cũng ngay dưới gốc cây này tôi đã chứng kiến sự tàn ác giữa người với 
người qua cách đối xử của người cộng sản đối với tù nhân của họ. Chính 
tại dưới gốc cây này tôi đã nghe tên Bách, chính trị viên trung tâm trả 
lời với một người tù làm trật tự khu B (khu giam tù chính trị), khi 
người này báo cáo với hắn trong phòng số... khu B có người mới chết. Hắn
 đã trả lời:
Anh báo cáo với tôi làm gì? Tụi nó chết như chó chết, gọi người lôi xác nó ra!
Và ngược lại, cũng chính tại gốc cây này tôi đã thấy một "ánh mắt u buồn
 thế kỷ" của Nàng nhìn tôi trước khi Nàng và các bạn bị trói tay liên 
hoàn với nhau trên một chiếc GMC để đi lên trại tù Tiên Lãnh.
Câu nói của tên chính trị viên và ánh mắt của Nàng là sức sống của tôi 
từ sau ngày mất nước (30/04/1975) đến nay và có thể là suốt cuộc đời.
Tuần đầu trong tù, phần thì nhớ gia đình, phần thì bị thẩm vấn (Cộng 
sản gọi là đi cung) liên tục nên tôi không ra ngoài, đến tuần thứ hai, 
vào một buổi sáng, tôi được gọi đi nhận quà thăm nuôi lúc trở vào khi 
đi ngang qua cây mù-u tôi nhìn vào cuối khu A, nơi có phòng giam nữ thì 
thấy một cô gái dáng người thon cao, khuôn mặt trái xoan, da trắng, độ 
19, 20 tuổi đang vừa chải tóc vừa nghiêng nghiêng mái tóc dài của mình 
để hong khô dưới ánh nắng ban mai của mặt trời, điểm đặc biệt đập vào 
mắt tôi lúc ấy là cô ta mặc bộ đồ bà ba trắng do đó nổi bật trong đám 5,
 6 cô đang đứng trò chuyện xung quanh. Ngạc nhiên trước một hình ảnh quá
 trong sáng trong nhà tù, tôi quay lại hỏi anh trật tự (cũng là tù 
nhân), người dẫn tôi đi nhận quà:
Anh T, mấy cô ấy nhỏ như vậy mà bị tội gì vào đây?
Anh ta trả lời:
Tôi cũng không "nắm chắc" (hồi đó tù nhân hay cố dùng từ cộng sản) nhưng đa số là tội hình sự, một số ít là làm sở Mỹ.
Sợ anh ta học lại với cai tù nên tôi không hỏi tiếp và đi về phòng của 
mình. Suốt ngày hôm đó và cho đến sáng hôm sau, hình ảnh người con gái 
mặc đồ trắng đứng chải tóc trước cửa nhà tù cứ ám ảnh tôi hoài và hình 
như có một động cơ nào đó thôi thúc tôi phải tìm biết người con gái đó 
là ai và bị tội gì!
Sau nhiều lần quan sát, biết các cô thường hay đi vệ sinh vào buổi sáng 
sớm ngay khi cửa phòng được mở, tôi chờ đến ngày thứ bảy (cai tù nghỉ 
việc), sau khi cửa phòng được mở, tôi ra đứng ngay dưới cây mù-u và đợi 
họ. Trời không phụ lòng tôi, chỉ độ mười phút sau tôi thấy cô bé bạn với
 cô gái áo trắng bước ra khỏi phòng để đi vệ sinh, tôi vội đi theo sau 
lưng cô ta, khi đến con đường luồng, nhìn trước sau không thấy ai, tôi 
vội nói:
Cô bé.
Cô ta dừng lại, nhìn lui và hỏi nhỏ:
Anh gọi em?
Tôi nói:
Phải, em cứ tiếp tục đi đi, đừng dừng lại tụi nó nghi, cô gái áo trắng sao hôm nay không thấy ra ngoài?
Cô ấy hỏi lại:
Anh nói chị Nguyệt hả?
Tôi nói 
Vâng.
Không trả lời vào câu hỏi của tôi, cô bé vừa đi vừa nói:
Để em nói lại với chị Nguyệt cho, thì ra mấy bữa nay em thấy anh cứ nhìn tụi em, té ra anh nhìn chị Nguyệt.
Thấy có người đi sau lưng, chúng tôi chấm dứt câu chuyện và bước nhanh 
vào phòng vệ sinh. Vài phút sau tôi ra khỏi phòng vệ sinh, đi đến gốc 
cây mù-u giả vờ nói chuyện với bạn tù và chờ đợi. Quả nhiên sau khi cô 
bé về phòng chừng 5 phút, tôi thấy cô gái áo trắng bước ra khỏi phòng, 
nghiêng nghiêng mái tóc vừa chải tóc vừa dùng bàn tay trái còn lại vẫy 
nhè nhẹ về phía tôi. Đó là hình ảnh đầu tiên tôi quen biết với nàng, chỉ
 kéo dài chừng 3 phút nhưng nó ở lại trong tôi đến suốt đời.
Kể từ sau hôm đó, tôi và Nàng ngày nào cũng chuyện trò với nhau bằng mắt
 qua một khoảng cách độ chừng 70 mét, tính từ cây mù-u đến cửa phòng tù
 của Nàng hoặc nhắn gởi, thư từ qua cô bé liên lạc viên mà sau này tôi 
đặt tên cho cô ta là "Chim Xanh".
Thời gian đầu, thường chỉ là một lời nhắn ngắn gọn tỉ như: Anh khỏe không? Nhớ anh! Ra gốc mù-u... hay
 một câu rất ngắn viết trên một tấm giấy nhỏ xíu được vo tròn như hột 
đậu phộng, kẹp trong hai ngón tay, được cô bé "Chim Xanh" thả rơi trước 
mặt tôi khi đi ngang qua. Khó có ai có thể thấy được, hoặc có thấy họ 
cũng tưởng lầm rằng cô đó vất cục rác nhỏ. 
Thời gian sau chúng tôi bạo dạn hơn, viết dài hơn và đôi khi còn gởi cho
 nhau vài vật kỷ niệm nhỏ như chiếc nhẫn, vài viên xí-mụi, chai dầu Nhị 
Thiên Đường... Hoặc vài lời hứa hẹn vô vọng như: Nếu về được em sẽ đi thăm nuôi anh! Em sẽ chờ anh! Giữ gìn sức khỏe!... Và
 cứ như thế cuộc tình âm thầm nhưng hạnh phúc của tôi và Nàng êm trôi 
với sự giúp đỡ bí mật của "Chim Xanh". Khoảnh đất bé tí trước cửa sắt 
nhà tù của Nàng và gốc cây mù-u đối với hai đứa chúng tôi, đã trở thành
 thiên đường trong cái địa ngục xót xa này. Thì ra trong địa ngục vẫn có
 thiên đàng cho những người biết yêu thương nhau!
Mặc dầu không ai nói với ai, nhưng cả hai, tôi và Nàng đều phập phồng lo
 sợ sẽ có một ngày bị chuyển trại. Chuyện gì phải đến rồi cũng đến, đó 
là một buổi sáng mùa thu tháng Tám (8/1975), sau khi cửa phòng được mở, 
như thường lệ tôi đi qua nhà bếp ở khu A để kiếm nước sôi về khuấy càfê 
thì nghe các anh bạn tù nơi đây to nhỏ với nhau: "Hôm nay có chuyển 
trại" (thường thường tù nhân làm tại nhà bếp hay thạo tin tức trong trại
 giam vì họ được cai tù thông báo trước để chuẩn bị phần ăn cho tù nhân 
trong ngày), tôi vội đi tìm anh trưởng bếp đang đứng gần các chảo cơm và
 hỏi:
Anh H, hôm nay có chuyển trại hả?
Anh ta nói:
Hình như vậy, tụi anh đang chuẩn bị phần cơm cho họ đây.
Tôi hỏi tiếp
Đông không anh? Khu nào vậy?
Anh ta trả lời:
Phòng nữ, đông.
Nghe vậy tôi hoảng hồn vất ly nước nóng đang cầm và chạy về phòng mình 
với ý định viết thư báo cho nàng biết. Sau khi viết vội trên tấm giấy 
nhỏ mấy chữ "hôm nay phòng nữ có chuyển trại" vò nhỏ lại, kẹp trong hai 
ngón tay và đi ra cây mù-u đứng chờ "Chim Xanh" để gởi cho nàng. Nhưng 
đã không còn kịp nữa, chắc có lẽ vì có chuyển trại nên cánh cửa sắt 
phòng nữ không được mở như thường lệ, nó vẫn còn bị đóng im ỉm. Từ xa 
nhìn đến, tôi thấy có nhiều cánh tay thò ra ngoài khung cửa sắt vẫy vẫy 
một cách vô vọng như những người chết đuối cố gắng vẫy tay kêu cứu lần 
cuối cùng trước khi chìm sâu dưới dòng nước, một trong những cánh tay đó
 có tay áo màu trắng, chắc là của nàng!
Độ khoảng gần một tiếng đồng hồ sau, nội cổng của trại giam mở, một tốp 
cai tù độ 4, 5 tên đi vào, tên đi đầu có cầm một cuốn sổ khá lớn, bọn 
chúng đi thẳng tới nhà giam nữ và dừng lại trước cửa, sau đó cửa sắt 
được mở và chúng bắt đầu gọi tên những người bị chuyển trại, đây là giây
 phút lo sợ nhất của tù nhân, ai ở lại, ai đi được quyết định vào lúc 
này (ở lại thì có hy vọng được về còn nếu bị chuyển đến trại tù lao động
 thì ngày về là vô vọng bởi vì họ là những người tù không án).
Tôi vì đứng ở xa nên không nghe được mà chỉ thấy từng cô bị gọi tên bước
 ra khỏi phòng giam, ngồi xếp hàng trước cai tù và Nàng là người số 8 
bước ra khỏi phòng.
Vẫn bộ đồ bà ba trắng như mọi ngày, tay xách chiếc xắc nhỏ, vừa bước ra 
khỏi cửa ánh mắt đầu tiên của nàng là hướng về cây mù-u, thấy nàng bước 
ra, tôi như người mất hết sức lực, vội dựa vào gốc mù-u để đứng cho 
vững, chăm chú nhìn nàng bước ngang qua hai tên cai tù và đến ngồi sau 
lưng cô bạn tù ra trước. Vì vướng những người tù ra trước và bọn cai tù 
nên tôi không thể thấy được gương mặt của nàng sau khi Nàng ngồi xuống 
mà chỉ thấy tay phải của nàng chốc chốc lại dùng ngón tay trỏ viết viết 
mấy chữ gì đó trên mặt đất, tôi biết Nàng cố viết để cho tôi đọc nhưng 
vì quá xa nên tôi không đoán ra được Nàng muốn nhắn lại điều gì.
Cuộc điểm danh kéo dài độ 30 phút, sau đó chúng đóng cửa phòng, bắt các 
cô đứng dậy xếp hàng một, đếm lại một lần nữa trước khi dẫn họ ra chiếc
 xe GMC đậu sẵn trước nội cổng của trại giam. Đây là lần đầu tiên và 
cũng là lần cuối cùng hai đứa chúng tôi được thấy nhau gần nhất, ánh mắt
 u buồn tuyệt vọng của nàng nhìn tôi, khi đoàn người đi ngang qua cây 
mù-u đã vĩnh viễn theo tôi trong suốt những năm tháng còn lại của cuộc 
đời. 
Như có một linh tính, sau khi nàng vừa khuất sau cánh cửa sắt của trại, 
tôi vội chạy vào con đường luồng đi vệ sinh để đến phía sau phòng giam 
của nàng, tôi mừng rỡ khi thấy trong hố đựng phân phía sau của phòng 
nàng có một mảnh giấy học trò gấp đôi chìm trong phân và nước, biết đó 
là thư của nàng để lại cho tôi, tôi vội nhặt lên và bỏ nhanh vào túi áo 
bất kể nó dơ dáy như thế nào. Sau đó tôi giả vờ đi vệ sinh và dùng nước 
trong nhà cầu để rửa sạch bức thư. Trong thư nàng chỉ viết vỏn vẹn có 
mấy câu như sau (nguyên văn)
Anh,
Em vì không chịu làm vợ của công an phường nên bị vu vạ là gái mại 
dâm và bị bắt đi cải tạo phục hồi nhân phẩm. Nếu không giải được oan 
nhục này em sẽ chết.
Mộng được đi thăm nuôi anh chắc không thành, mong anh giữ gìn sức khỏe, vĩnh biệt anh.
Yêu anh - Em.
Đọc xong thư, như người mất hồn, tôi vội chạy ra nơi nội cổng của trại 
giam hy vọng được nhìn thấy nàng lần cuối, nhưng đối diện với tôi là tấm
 cửa sắt đóng kín mít lạnh lùng và cặp mắt xoi mói, hung ác của tên cai 
tù trên vọng gác đã trả tôi về với thực tại thân phận của một tù nhân. 
Để tránh sự nghi ngờ của tên cai tù trên vọng gác tôi vội rẻ hướng đi về
 phía nhà bếp, giả vờ xin nước sôi để chế mì gói và đi trở về phòng của 
mình.
Công việc đầu tiên sau khi tôi trở về phòng là dùng ly nước xin ở nhà 
bếp để rửa bức thư của nàng thêm một lần nữa, lấy áo thấm cho thật khô 
và cất nó vào giữa lớp áo quần mang theo của tôi. Đây là kỷ vật duy nhất
 của nàng để lại cho tôi, tôi không thể mất nó như đã mất nàng. Sau đó 
tôi lân la qua khu A dò hỏi về chuyến đi của nàng thì được biết nàng bị 
chuyển lên trại tù Tiên Lãnh thuộc huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam/Đà 
Nẵng. Từ đó mặc dầu trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng nhưng tôi vẫn hy 
vọng sẽ có một ngày tôi được đoàn tụ với nàng hay ít nhất là biết được 
tin tức của nàng.
Vào khoảng tháng 3 năm 1976 tôi bị chuyển lên trại tù An Điềm thuộc quận
 Thượng Đức, Tỉnh Quảng Nam/Đà Nẵng, trước khi đi, vấn đề lo lắng nhất 
của tôi là bức thư của nàng, tôi biết chắc rằng qua mỗi lần chuyển trại,
 khi đến trại mới tù nhân bị lục soát rất kỹ dù một cây kim cũng không 
lọt qua được những cặp mắt cú vọ của cai tù, phương pháp tốt nhất là cứ 
bày ra cho họ thấy để họ không để ý đến thì mới lọt qua sự kiểm tra của 
họ được, nghĩ vậy nên tôi liền chặt đôi tán đường đen sẵn có, dùng lá 
thư của nàng gói một mửa tán, trước đó tôi không quên làm nhàu bức thư 
và lấy nước thấm ướt tán đường để màu vàng của đường thấm vào bức thư 
làm cho bức thư giống như một tấm giấy cũ thông thường được gói bởi 
người bán đường khi gia đình tôi mua nó để đi thăm nuôi. Nhờ phương pháp
 này mà tôi đã giữ được bức thư sau không biết bao nhiêu cuộc tra xét 
của cai tù trong suốt 12 năm 6 tháng cho đến ngày về.
Lên trại tù An Điềm chưa được bao lâu thì đến khoảng tháng 7 năm 1976 
tôi bị đưa lên trại Tiên Lãnh để học chính trị cùng với một số bạn tù 
khác. Lúc đó tôi nghĩ rằng đây là dịp may hiếm có để tôi có thể gặp được
 nàng nhưng định mệnh thật khắt khe đối với tôi, với chuyến đi này tôi 
biết tôi đã mất nàng vĩnh viễn, hai chữ "vĩnh biệt" mà nàng đã viết 
trong thư trước đây, khi nàng rời trại tù Kho Đạn ở chợ Cồn cứ nhảy múa 
trước tôi hằng đêm, mỗi khi tôi nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ của mình.
Số là sau hai tuần ở Tiên Lãnh, trong những lần đi chuyển củi về cho 
trại tù tôi đã tìm ra được khúc sông mà các nữ tù nhân ở phân trại nữ 
thường hay ra tắm, trong một lần chuyển củi ngang qua đây, nhìn xuống 
các cô đang tắm tôi thấy được cô bé Chim Xanh trong bọn họ, khi đi gần 
đến bờ sông cách bọn họ độ 5 mét tôi giả vờ vấp té và làm cho mặt mình 
lấm đất để đến bờ sông rửa mặt. Trong lúc rửa mặt tôi hỏi cô bé liên lạc
 viên (cô đã nhận ra tôi và lội đến gần hơn):
Chị Nguyêt đâu?
Cô ấy trả lời:
Chị Nguyệt đã uống Cloroquin tự tử chết rồi! ba tháng sau khi lên đây. Trong lòng bàn tay của chị có tên anh.
Nói xong cô ấy vội lội ra xa và quay mặt lại nhìn tôi với dòng nước mắt.
 Mọi thứ trước mặt tôi trong lúc đó bỗng chập chờn, mờ nhạt chỉ còn lại
 hình ảnh hư ảo của một cô gái thon cao, mặc nguyên bộ đồ bà ba trắng, 
một tay chải mái tóc dài và một tay nhè nhẹ vẫy về phía tôi, Biết là 
mơ, tôi vội vén vạt áo tù lên lau vội khuôn mặt đầy nước của mình, chậm 
rãi đi về phía cây củi, vác nó nên và đi về trại. Chưa bao giờ có một 
vật nào đè nặng trên vai tôi như cây củi ngày hôm đó.
Chiều hôm đó tôi chỉ ăn một nữa phần cơm của tôi, nữa kia tôi bỏ vào 
trong cái lon Guizgo cất ở đầu nằm, đến tối sau khi họp hò kiểm điểm 
xong, đèn trong phòng đã tắt, trước khi đi ngủ tôi lấy xấp áo quần có 
bức thư của nàng bên trong để trên đầu nằm, sau đó để lon cơm và nửa tán
 đường kế bên, lấy ánh trăng Thu xuyên qua khung cửa tù làm đèn, lấy 
tiếng gió rừng rít qua mái nhà tù làm lời khấn để cầu nguyện cho nàng và
 thiếp đi theo dư âm tiếng hát của nữ ca sĩ Mai Hương từ một nơi xa xôi 
nào đó vọng về:
Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau 
phong thư ngào ngạt hương 
Nét bút đa tình lả lơi 
Nhớ phút ngập ngừng lòng giấy viết rằng 
Chờ đến kiếp nào 
Tình đầu trong gió mùa 
Người yêu ơi 
Em nay về đâu? 
Phong thư còn đây 
Nhớ nhau tìm trong ánh sao
.....................................
Nhớ tới ngày nào cùng bước đến cầu 
Ngồi xõa tóc thề 
Còn đâu ân ái chăng người xưa?(*)
Đến khoảng cuối tháng 9/1976 tôi bị chuyển về lại trại tù An Điềm và ở đó cho đến ngày ra tù vào cuối tháng 7/1987.
Tháng 6/1988 tôi từ Huế ra Hải Lăng/Quảng Trị để đi vượt biên bằng ghe 
đánh cá, chuyến vượt biên này không thành, ghe chạy gần đến đảo Hải Nam 
thì bị chết máy, trôi lênh đênh giữa biển 5 ngày và cuối cùng dạt vào bờ
 biển Đồng Hới ngay trước đồn công an. Trong khi chờ công an Đồng Hới ra
 kéo tàu vào bờ, tôi suy nghĩ thật nhiều về bức thư của Nàng, tôi biết 
lần này bọn công an sẽ lục soát rất kỹ kể cả bắt người phải hả họng, lè
 lưỡi hoặc cởi áo, cởi quần để chúng khám vào chỗ kín với mục đích tìm 
vàng của người vượt biên mang theo, tôi cũng không muốn đốt hoặc xé bỏ 
bức thư vì làm như thế là có lỗi với Nàng và xem như khai tử mối tình 
của Nàng và tôi, cuối cùng tôi quyết định lấy bức thư của Nàng gói tấm 
thẻ bài của tôi (là hai kỷ vật độc nhất tôi đem theo khi đi vượt biên) 
buộc lại bằng một sợi giây sắt nhỏ sau đó thả xuống biển với hy vọng đại
 dương bao la và sâu thẳm sẽ vĩnh viễn che chở cho mối tình của hai đứa.
Hôm nay gần 40 năm sau, tôi ngồi viết những dòng chữ này như một phần để
 thực hiện lời hứa đối với nàng trong những ngày đầu thương nhau:
Oan này anh rửa cho em
Tình này anh sẽ theo em suốt đời
Nguyệt ơi!
Bởi vì em là Nguyệt
Nên có chuyện mù-u
Bởi vì em là Nguyệt
Nên có tình thiên thu.
Ai đem Trăng nhốt vào tù
Để anh dựa gốc mù-u* một đời
Thương nhau không nói thành lời
Nhìn nhau tím cả một trời xa nhau
Em ơi, thương nhớ không màu
Làm sao đếm được sắc màu nhớ thương
Từ em lệ mắt còn vương
Tim anh đã biết sầu thương một người
Từ em mười chín đôi mươi
Tim anh đã biết đầy vơi tình người
Vắng em anh chết nụ cười
Vắng em anh mất dáng người trăm năm
Đêm sâu nơi chốn em nằm
Cỏ cây hoa lá về thăm mộ nàng
Anh từ tàn cuộc khăn tang
Phủ lên nấm mộ em tàn ước mơ
Bao giờ cho đến bao giờ
Tình em trở lại bến bờ nhân gian
Bao giờ cho đến bao giờ
Tình anh mới hết đợi chờ kiếp sau.
Em ơi sao chẳng chờ nhau
Để anh sống với nỗi đau nghìn trùng.
10/04/2014
 
.jpg)
 
No comments:
Post a Comment