Trước
năm 1975, ở miền Bắc, Đảng tiêu diệt tất cả những ngả nhận thức khác.
Đảng bóp chết ngay từ trong trứng nước những kênh thông tin khác. Chỉ
cần một câu thơ hay một bài báo có hương vị lạ, lập tức nó được mang lên
dàn hỏa thiêu, và tác giả của nó bị rút phép thông công.
Mặt khác Đảng ra tay truyền bá nhiều thứ
chủ nghĩa lạ: Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Marx – Engels – Lenine, Chủ
nghĩa Staline, Chủ nghĩa Mao, Chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Chủ nghĩa
quốc tế vô sản… Rồi Đảng cao đơn hoàn tán chúng thành một thứ tôn giáo
riêng. Trong đó, Đảng là giáo chủ, nhân dân là những tín đồ, mà khoảng
cách từ tín đồ đến cuồng tín là rất ngắn.
Đảng dạy rằng: Mỹ chiếm miền Nam làm
thuộc địa. Chính quyền miền Nam là bù nhìn, để cho dân miền Nam đau đớn
dưới gót giầy xâm lược. Thế là những thế hệ cuồng tín tử vì đạo ở miền
Bắc quê hương tôi đã tầng tầng lớp lớp xẻ dọc Trường Sơn, vào Nam cứu
nước. Đảng lại phong cho họ một mỹ danh “nhân dân anh hùng”, cộng với
những lời hứa hão.
Thế là những tín đồ thi nhau nhảy vào những thung
lũng tử thần, chém giết đồng loại, mà có mấy khi dừng tay để tự vấn
lương tâm.
Thời gian là những cơn mưa tháng Sáu, khi
rả rích, khi xối xả, kiên nhẫn gột rửa hết những lớp phấn son loè loẹt,
làm sạt lở những đồi núi giả, đánh sập những miếu mạo, đền đài linh
thiêng ngụy tạo. Thời gian cũng là thứ dược liệu để giải độc cho những
con người cuồng tín, thoát ra khỏi chứng thôi miên, phục hồi lại những
bán cầu đại não đã mất khả năng tư duy độc lập từ lâu.
Giờ đây, chỉ cần người có trí tuệ trung
bình cũng có thể tự hỏi:
Tại sao Mỹ chiếm miền Nam Việt Nam làm thuộc
địa, nhưng họ lại không làm như vậy với Nhật, hay Nam Hàn?
Miền Nam là
một quốc gia có chủ quyền tương đương với chính quyền ở miền Bắc tại sao
lại gọi họ là ngụy?
Dùng vũ lực để bức tử một chính thể hợp pháp, do
dân bầu lên, đó là hành vi gì? Xâm lược hay giải phóng? Sự thực, người
dân miền Nam có cần phải giải phóng không?
Nếu mang hai chính phủ của
hai miền Bắc và Nam trước 1975 ra so sánh, thì chính phủ nào ưu việt
hơn, văn minh hơn, nhân bản hơn?
Để trả lời được những câu hỏi trên, không
cần phải có đầu óc thông thái hay uyên bác, không cần có học vị hay học
hàm, chỉ cần là một người tử tế, và chỉ có lòng tử tế mới giúp tìm ra
câu trả lời. Khi những câu hỏi trên được trả lời đúng, thì chuyện hòa
giải hòa hợp sẽ không đến nỗi khó khăn, tốn kém. Bởi vì, nếu sự thực
không được tôn trọng, thì lòng cao thượng hay sự vị tha cũng chẳng nghĩa
lý gì.
Đảng kêu gọi Việt kiều về quê ăn Tết.
Đảng mở Đại hội Việt kiều mỗi năm. Đảng đưa Việt kiều đi thăm Hoàng Sa,
Trường Sa. Đảng mời gọi Việt kiều giữ quốc tịch Việt Nam. Đảng cho thiền
sư về lập trai đàn giải oan, cầu siêu trên mọi miền đất nước. Đảng
giang rộng vòng tay đón những khúc ruột ngàn dặm.
Nhưng hôm nay Đảng lại
tát vào mặt Việt kiều trên báo Nhân Dân: “Sụp đổ của chế độ bù nhìn,
thất bại của đội quân đánh thuê”. Trong văn bản chính thức của Đảng vẫn
chất chứa đầy những cụm từ hàm ý mạ lỵ, hạ nhục “ngụy quân”, “ngụy
quyền”, “ác ôn”, “bè lũ”. Đảng vẫn trịch thượng và ngạo mạn nói đến
“lòng khoan dung” về “sự cao thượng”.
Tôi không tin Đảng muốn “hòa hợp hòa
giải” trên cơ sở công bằng và lẽ thật. Nhưng tôi tin mỗi cá nhân có thể
làm được. Một giáo viên bớt thao thao bất tuyệt về những “chiến công
hiển hách” trên bục giảng. Một người cầm bút bớt đi những cụm từ trơ
trẽn trong bài viết của mình.
Một nghệ sỹ bớt đi những lời hoan ca nhảm
nhí “Như có Bác trong ngày vui đại thắng”
. Một tướng tá cộng sản viết
hồi ký trận mạc không gọi đối phương là “bọn”, là “thằng”. Đó chẳng phải
là những công việc thiết thực góp phần làm vết thương của dân tộc mau
lành sao?
Với những anh em Việt Nam Cộng Hòa: Nỗi
đau của các anh là nỗi đau của đất nước. Thất bại của các anh là thất
bại của Việt Nam. Các anh phải vào trại cải tạo, thì hàng triệu người
dân Việt Nam ở ngoài trại cũng chẳng tự do hơn. Các anh mất nhà, thì giờ
đây hàng triệu người Việt đang mất đất. Công xưởng của các anh bị tịch
thu, thì tài nguyên của đất nước cũng đang bị cướp. Các anh bị bỏ đói
trong tù, thì hàng triệu trẻ em trong nước cũng đang suy dinh dưỡng. Con
cái các anh bị xét lý lịch không vào được đại học, thì hàng triệu thanh
niên tài năng khác cũng bị gạt ra rìa. Các anh mất 16 tấn vàng, nhưng
người dân nghèo xứ Việt cũng chẳng được một phân.
Người chịu thất bại đau đớn nhất trong
cuộc chiến này, suy cho cùng, là nhân dân miền Bắc. Thử làm một phép
tính: Dân số miền Bắc trước 1975 khoảng 30 triệu (làm tròn số, thực tế
thì thấp hơn). Có 3 triệu thanh niên ở độ tuổi 18 đến 30 đã chết ở chiến
trường miền Nam. Như vậy cứ 10 người dân, thì có một người chết trận.
Đảng thí 1/10 dân số của một quốc gia để
đổi lấy chiến thắng, thử hỏi Đảng nhẫn tâm đến mức nào, và cái giá của
chiến thắng mà Đảng giành được bằng xương máu của dân đắt đến mức nào.
Quê tôi, những gia đình không có liệt sỹ
chỉ rơi vào một trong hai hoàn cảnh: Hoặc neo đơn góa bụa, hoặc gia đình
cán bộ. Bạn thử nhìn vào gia đình tướng Giáp. Con ông đi bộ đội, nhưng
đóng ở sân bay Gia Lâm hay làm trong viện nghiên cứu. Làm sao ông hiểu
được nỗi đau của người mất con. Bản thân ông chưa đặt chân vào đến chiến
trường, chỉ quanh quẩn trong hầm chỉ huy ở Hà Nội, nhưng ông lại tắm
gội trong ánh hào quang của chiến thắng.
Sau cuộc chiến những người dân quê tôi
được gì?
Từ cực Bắc, Trung bộ, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, lên miền
trung du Vĩnh Yên, Phú Thọ. Từ dãy núi đá vôi Ninh Bình, trải dài xuống
vùng đồng bằng châu thổ Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Từ vòng cung
Đông Sơn đến miền đông gian lao hùng vĩ Yên Tử, Quảng Ninh. Nơi đâu cũng
có dân oan, nơi đâu cũng mất nhà mất đất, nơi đâu cũng có tiếng gào
khóc, nơi đâu cũng cảnh Bá Kiến – Chí Phèo.
Ba Mươi Tháng Tư là một bi kịch khổng lồ
và thương đau không phải của riêng các anh em Việt Nam Công Hòa, mà là
của cả dân tộc chúng ta.
Nhưng ánh sáng đã le lói phía cuối đường
hầm. Những con người tử tế đã bắt đầu lên tiếng. Nhà văn Dương Thu Hương
khóc cho ngày 30 tháng Tư là ngày của man rợ đã chiến thắng văn minh.
Nhà văn Nguyên Ngọc tâm sự: “Miền Nam thắng có lẽ sẽ tốt hơn”. Huy Đức
viết: “Bên cần được giải phóng phải là miền Bắc”. Nhà văn Phạm Đình
Trọng sám hối: Chúng tôi chỉ là những công cụ mang học thuyết Mác – Lê
áp đặt cho miền Nam để cả nước cùng bị nô dịch.
Cơn dâu bể đã qua. Lửa chiến tranh đã
tắt, nhưng lửa trong lòng người Việt vẫn đang rực cháy.
Nỗi căm hận và
lòng luyến tiếc về một nền Cộng hòa non trẻ của Việt Nam đã bị bức hại
vẫn khôn nguôi.
Nhưng có cuộc sinh thành nào mà không đau đớn. Chúa Kitô
trước khi tái lâm cũng từng bị kẻ dữ hành quyết, đóng đinh trên khổ
giá.
Tôi không nhớ câu thơ này của ai, đã thuộc nó tự bao giờ, chỉ chép ra đây để mặc tưởng cái ngày chẳng thể quên này:
“Tháng năm cứ đến ngày oan trái
Đốt nén nhang lòng để nhớ thương”
“Tháng năm cứ đến ngày oan trái
Đốt nén nhang lòng để nhớ thương”
Cuối tháng Tư 2014
© Trần Hồng Tâm
No comments:
Post a Comment