LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI VIẾT:
Hơn 38 năm đối với đời
người quả thật dài. Những vui buồn của ngày tháng cũ trong ký ức theo
thời gian dài phải bị xóa nhòa, nhưng, đối với những người chiến sĩ
QLVNCH bị gác súng tức tưởi mà kẻ thù chụp cho cái mũ có nhiều “nợ máu
với nhân dân và cách mạng”, chúng trả thù và hành hạ thật ác độc, đê
hèn, làm sao quên được?
Tháng 6 năm 1976, Ban Quân Quản
Sài Gòn ra lệnh gom hết những người gọi là có nhiều nợ máu vào đợt “học
tập cải tạo” đầu tiên, sĩ quan cao cấp từ tá đến tướng. Bên chính quyền
với những vị công cử đầu não cùng với các vị dân cử trong Quốc Hội, Hội
Đồng Tỉnh; các giới chức lãnh đạo các đảng phái chính trị và các tu sĩ
có thành tích chống cộng…Sau đó chúng lùa hết quân cán chính VNCH vào
rọ. Trại tù cải tạo được thiết lập trên khắp lãnh thổ từ miền cuối Việt
Cà Mau đến tận vùng cực bắc Lào Cai, Sơn La..., và cả nước là một nhà tù
khổng lồ. Đây quả là một giai đọan lịch sử bi thảm nhất trong hơn 4
ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.
Chuyện Tù Cải
Tạo Nhiều Người Muốn Biết mà tôi đang viết sẽ phát hành vào năm tới,
nhằm phơi bày và vạch trần tội ác của chế độc cộng sản Việt Nam đối với
quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị “ngã ngựa” kể từ ngày 30.4.1975.
Dưới đây, tóm lược bối cảnh các trại tù mà Trần Văn đã từng trải qua:
Thành Ông Năm (Hóc Môn), Suối Máu (Biên Hòa), Sơn La (Bắc Việt), Hồng Ca
- Yên Bái (Bắc Việt), Tân Lập - Vĩnh Phú (các trại gọi là K - 2 - 1 - 4
- 3 - Bắc Việt), Z30D - Hàm Tân (Bình Tuy - Rừng Lá - Miền Nam VN)).
Nhân
Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tổ chức ở Dallas – Texas từ 3 đến 5
tháng 10 năm 2008. Cá nhân tôi và trên 4 - 5000 người ở khắp nơi Hoa Kỳ
& Canada hội tụ vê đây cùng tham dự 3 ngày đại hội do Hội Gia Đình
Cựu Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ tổ chức. Đây là đại hội cựu
tù nhân quy tụ đông đảo nhất cựu tù ở hải ngoại, đánh dấu sự thành công
to lớn dù có người hô hào chống đối tẩy chay.
Xin mời quý độc giả đọc và suy gẫm, thế hệ chúng tôi phải làm gì để quên quá khứ bi thảm nhất trong cuộc đời của mình…?
-------------
NHỮNG NGÀY ĐẦU VÀO TÙ:
TRƯỜNG TRUNG HỌC PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ
Theo
thông báo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam từ ngày 30.4.75, theo lời cộng
sản nói, những thành phần "có nhiều nợ máu" phải trình diện 3 ngày 13,
14, 15 tháng 6 năm 1975 (tôi có thể nhớ sai ngày dương lịch), nhưng,
chắc chắn là trong 3 ngày trình diện đó có ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch
năm Ất Mão, vợ chồng chúng tôi trình diện vào buổi chiều ngày này.
Cư
ngụ ở quận 8 nên chúng tôi trình diện một lúc với các anh em khác cùng
cấp bậc Thiếu tá ở các quận 6, 7 (hình như có thêm quận 9 mới thành lập
không lâu ở bên kia sông Sài Gòn - Thủ Thiêm) tại trường Trung học
Pétrus Trương Vĩnh Ký ở đại lộ Cộng Hòa (VC gọi trường này là Lê Hồng
Phong). Còn những qúy vị khác tùy theo cấp chức trình diện ở các địa
điểm khác, hầu hết là các trường học. Thông cáo của kẻ cưỡng chiếm miền
Nam nói rõ là chúng tôi phải mang theo tư trang (đồ dùng cả nhân) và
đóng đủ tiền ăn 1 tháng, khoảng trên 13 ngàn mấy trăm (bằng 1/3 lương
của một Thiếu tá. Sau đó, trình diện đi tù đợt 2: sĩ quan từ Đại úy trở
xuống đóng tiền ăn 10 ngày…).
Sĩ quan cấp Thiếu tá trình diện ở
trường Trung học Pétrus Ký ít hơn các nơi khác, trên dưới 100 người, vì
các quận 6,7,8… nằm ở ven đô - Thủ Đô Sài Gòn. Người nữ quân nhân duy
nhất tại điểm tập trung này, Thiếu tá Trần Thị Bích Nga, Chỉ Huy Trưởng
Trường Xã Hội Quân Đội (trường nằm trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu
Thủ Đô). Thật đúng là hoa lạc giữa rừng gươm tua tủa của hai phía ta và
địch.
Ngày đầu tiên trình diện, chúng tôi được “cách mạng” cho
thưởng thức cách trị bệnh thần sầu quỷ khốc, nằm dài trên ghế học trò,
được nhỏ nước tỏi tươi nồng nặc vào hai lỗ mũi. Ngày sau, truớc khi có
“lệnh hành quân” chuyển đến trại tù chính , chúng tôi được nhà hàng sang
trọng Ngọc Lan Đình ở Chợ Lớn đưa bàn ghế tới, cứ 10 người một bàn như
“nhập đại tiệc”, có đến 7 món ăn mà chúng ta thường gặp trong các tiệc
cưới… Khi nhân viên nhà hàng thân quen Ngọc Lan Đình đến “thết đải”, tự
dưng tôi chảy nước mắt vì tháng 2 năm 1962, khi tôi được các giáo sư và
nhà trường Phước Kiến (266 Đại lộ Khổng Tử, sau đổi tên là trường Phước
Đức.Vụ Tết Mậu Thân, trực thăng xạ kích lầm nơi này làm chết và bị
thương nhiều sĩ quan cấp tá) tổ chức một bữa tiệc linh đình để tiển đưa
tôi nhập ngũ khoá 13 Thủ Đức tại nhà hàng Ngọc Lan Đình. Lúc bấy giờ tôi
là Giám học trường trung học này [kể cả học sinh trung tiểu học có
(3000 hay 5000 em?), học 2 thứ tiếng Việt và Tàu mà tôi làm Giám học đặc
trách về các môn học Việt ngữ, Tiến sĩ Tăng Kim Đông làm Hiệu trưởng,
sau TS Đông làm Tổng Trưởng Giáo dục thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc]. Tôi
được TS Tăng Kim Đông mời phát biểu lời từ giã, sau vài lời cám ơn giáo
sư và nhà trường, tôi sực nhớ đến 4 câu thơ xưa của Tàu và lên giọng
to:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
Tự
nhiên tôi chảy nước mắt và khi đó có một giáo sư người Hoa rất qúy mến
tôi, anh cảm kích đọc lại bài thơ này bằng tiếng Hoa (Quan Thoại), cả
thực khách đến mấy trăm người dự tiệc như lắng đọng, cảm kích chia xẻ
với tôi “cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi”. Đó cũng là dấu ấn khó quên
trong đời đi dạy học của tôi từ tiểu học đến trung học. Sau hơn 13 năm
đi lính, nay cũng chính nhà hàng Ngọc Lan Đình đãi tiển chúng tôi vào
một ngày mai mờ mịt…nên tôi xúc động thật sự. Bài thơ tứ tuyệt ấy lại
đến với tôi và câu cuối cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi, 13 năm trước cho
đến ngày vào tù, tôi vẫn sống và thăng quan tiến chức. Tôi như thầy bói
suy luận, biết đâu câu thơ này sẽ vận vào cuộc đời ở tù của tôi từ đây…
Trình
diện “học tập cải tạo”, một danh xưng bịp của bọn CSBV mà chúng tôi tự ý
đưa thân nạp mạng cho loài quỷ dữ, đúng ngày Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng
5 năm Ất Mão (1975).
Hai vợ chồng đèo trên 1 chiếc xe đạp, người
tài xế trung thành của bà xã tôi, từ Hóc Môn đạp xe xuống để tiển đưa.
Khi chúng tôi mang ba lô vào cổng trường Pétrus Ký, chú Nhuận tên người
tài xế thân thương trung thành đó, một tay lái xe, một tay cố kềm đưa
chiếc xe đạp thứ hai về nhà. Chúng tôi ở khu lao động, dốc cẫu Chữ Y,
đường Hưng Phú - đường đi đến lò heo Chánh Hưng,. Bốn đứa con nhỏ của
chúng tôi, từ 3 đến 9 tuổi, được cha mẹ chúng để lại chiếc xe đạp làm
phương tiện và là một tài sản sau cuộc đổi đời này.
Viết đến đây, ký ức của tôi bỗng nhiên như thấy cảnh tượng hoang mang, lo sợ, giao động của hơn 38 năm trước như hiện rõ.
Khi
Thủ Đô Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, thời mạt vận của chánh thể VNCH đã
ập đến nhanh quá. Nỗi nhục nhã ê chề của những người lính từng cầm súng
chống quân xâm lược cộng sản Bắc Việt, nay đến thời điểm lâm vào cảnh cá
chậu chim lồng. Tất cả chiến sĩ anh hùng của QLVNCH phải buông súng và
sống trong cảnh phập phồng. Chúng tôi chờ đợi kẻ thù công bố chính sách
đối xử với tù hàng binh mà CSBV rêu rao ra rả hàng ngày trên các hệ
thống truyền thông suốt 2 tháng 5 và 6.1975. Sự phập phồng, lo âu như
cảnh tượng quân Khơ Me đỏ sau những ngày tiến chiếm Thủ Đô Pnom Penh
(Nam Vang) nhốt và giết sạch kẻ thù của chúng. Ý nghĩ này đã xâm nhập
vào tâm tư tình cảm của mọi người, một tương lai mờ mịt u buồn, thê
lương tràn ngập trong suy nghĩ của từng người từng gia đình mà gia đình
chúng tôi cả hai vợ chồng đều là lính, bốn đứa con nhỏ dại sẽ nương tựa
vào đâu để sống?.
THÀNH ÔNG NĂM – LIÊN ĐOÀN 5 CÔNG BINH KIẾN TẠO
Một
trăm thiếu tá trình diện ở trường Pétrus Ký, khi chuyển đến thành Ông
Năm ở Hóc Môn (bản doanh của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo) được chia
thành 2 đội 34 và 35. Tôi ở đội 34, đội 35 có 5 Y sĩ Thiếu tá. Bà Thiếu
tá Bích Nga nhập cùng với quý chị cấp tá khác ở đội nữ, cách đội 34, 35
chỉ một con đường và gần sát hàng rào kẽm gai. Hàng ngày, chúng tôi có
thể trông thấy nhau dùng ánh mắt chia xẻ sự lo âu sâu xa về tương lai
của 4 đứa con nhỏ dại…
Những ngày đầu, nhiều chuyện quan trọng đã xảy ra tại lán của đội 34 và 35 ở trại tù Thành Ông Năm – Hóc Môn:
Chuyện
khó tin, nhưng có thật, một tên cán bộ y tá, mặt rỗ khá rõ đến lán đội
34 và 35, tập hợp 5 ông thiếu tá bác sĩ Quân Y, dẫn ra khỏi lán bảo đứng
nghiêm, 5 ông là bậc thầy của chúng, nghe tên cán ngố này giảng về vệ
sinh phòng bệnh… Hắn dẫn 5 ông bác sĩ tội nghiệp của chúng ta phải đi
xem “thanh sát” các đường mương, nhà cầu, cách làm sạch các chỗ này.
Chưa hết cán ngố còn chỉ bảo cách chửa bệnh nữa cơ làm 5 ông bác sĩ phe
ta cứ ngẫng mặt mà nhìn chịu trận, nín thở qua sông. Về lán, anh bác sĩ
Tôn Thất Thận (lớn tuổi nhất trong 5 ông BS) nằm gần tôi, kể lại cho
chúng tôi nghe mà cùng nhau cười ngất.
Chuyện mà tôi cũng khó
quên, anh Hoàng Xuân Định (hiện ở San Jose), Thiếu tá Quân Cụ, anh em
thúc bá với Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên Tư Lệnh QĐ1 & QK1,
đứng ra nhận lãnh chức Trưởng Ban Văn Nghệ của trại tù Thành Ông Năm
(Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo do Đại tá Dương Công Liêm làm Liên Đoàn
Trưởng). Không biết ai giới thiệu với anh Định, chọn tôi vào ban văn
nghệ, xung vào thành phần đóng kịch vì hát xướng, giọng vịt đực của tôi
bù trất. Sở dĩ, tôi chấp nhận sự chọn lựa này vì hoàn cảnh bi đát của
tôi, vợ chồng đều bị đi tù, ở gần nhau mà chẳng nói được lời nào với
nhau. Tôi luôn bị ám ảnh tình cảnh 4 đứa con nhỏ dại làm sao mà sống với
bà mẹ vợ già cả và thường bị nhiều thứ bệnh. Hơn nữa, trước khi đi tù,
có tin, nhà đang ở của gia đình sẽ có một tiểu đội bộ đội CSBV “xin”
được đến đóng chốt, làm sao mẹ vợ của tôi từ chối, các con chúng tôi sẽ
chịu cảnh ở chật chội, mất tự do. Tôi cần phải làm cái gì để tạm quên sự
lo âu dằn vặt đang ăn sâu vào tâm trí, tôi vào đội văn nghệ để giết thì
giờ.
Suýt chút nữa, ban văn nghệ của anh Hoàng Xuân Định được
cách mạng “chiếu cố” cho vào cùm. Với vỡ hài kịch mà anh Định viết nói
về những ngô nghê, ngu dốt của đám khỉ từ rừng mới về Sài Gòn hoa lệ làm
cuộc đổi đời, dân chúng từ sung túc xuống bần cùng. Dù anh Định viết
rất khéo, nhưng đến buổi phúc khảo, có người trong phe ta làm ăng-ten
lập công (nghe anh em kể lại) phân tích tỉ mỉ cái ý nghĩa của vỡ hài
kịch “trình” với cán bộ “răng đen mã tấu” ngu dốt “đì” chúng tôi. Nhưng,
lúc đó cán bộ cộng sản còn “nới tay” vì mới chiếm Sài Gòn, lòng dân còn
nhiều hoang mang và người “tù cải tạo” vừa đóng tiền nhập trại tù chưa
lâu nên toán văn nghệ chúng tôi thoát hiểm “trong đường tơ kẽ tóc” chỉ
bị cảnh cáo dằn mặt và đuổi về đội.
Chính đội 35 “nổi tiếng” vì
có hai chiến sĩ can đảm anh hùng nhất của chúng ta lúc bấy giờ. Ai bị
nhốt ở Thành Ông Năm thời điểm đó đều nghe danh 2 Thiếu tá của QLVNCH là
anh Quách Hồng Quang, cư ngụ ở vùng cầu Nhị Thiên Đường, Tiểu Đoàn
Trưởng Biệt Động Quân ( tôi không nhớ rõ: TĐ 42 hay TĐ 44, có tên là Cọp
Xám hay Cọp Ba Đầu Rằn, 2 tiểu đoàn vang danh anh dũng của vùng đồng
bằng sông Cửu Long-V4CT, cộng quân khiếp sợ). Người thứ hai là Thiếu tá
Phạm Hữu Thịnh, đơn vi cuối thuộc Ban Liên Hợp 4 Bên ở Sài Gòn, anh gốc
là An Ninh Quân Đội, cư ngụ ở Dạ Nam Cầu Chữ Y. Cả hai chiến sĩ anh hùng
của chúng ta đã can đảm “trốn trại” đầu tiên, tìm đường vượt thoát khỏi
cảnh tù đày nhục nhã vào một đêm có gần nửa vành trăng trên bầu trời.
Đây là vụ trốn trại đầu tiên khi CSBV lùa quân cán chính VNCH vào rọ tù
của chúng, có thể nói là vô tiền khoáng hậu mà tôi chứng kiến.
Tôi
chơi rất thân với hai anh Quang, Thịnh, vốn tôi quen biết anh Quang từ
miền Tây, lúc ấy tôi là sĩ quan báo chí của QĐ4 từng theo ông Tướng Tư
Lệnh QĐ4 đến thăm viếng đơn vị khi anh Quang còn là Trung đội trưởng.
Anh Thịnh ở phía bên kia cầu Chữ Y, gia đình tôi ở phía bên này cầu Chữ
Y, cả hai anh đều nhỏ hơn tôi 5-6 tuổi và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ
Đức sau tôi nhiều khóa. Hai anh Thiếu tá trẻ này xem tôi là niên trưởng,
năm 1975, tôi đã qua tuổi 40.
Trước khi thực hiện chuyện phi
thường, liều lĩnh, anh Quang bị đau liên tiếp nhiều ngày, tôi có tặng
nhiều viên thuốc cảm và trị sốt rét mà anh Quang cần. Còn anh Thịnh,
hàng ngày mải mê tập thể dục, anh Thịnh còn tự chế một cái tạ để tập,
hai tay của anh cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Một lần, tôi hỏi, anh Thịnh
nói tôi tập tạ nhằm luyện cho thật khỏe 2 tay để có ngày sử dụng và ngày
ấy là ngày N, giờ G, giờ định mạng của cả hai anh Quang và Thịnh?.
Khoảng
từ 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng của một đêm có mưa lất phất, trên nền
trời và cảnh vật, ánh trăng sáng lờ mờ, hai anh Thịnh và Quang đi ra
hướng cầu tiêu ở gần hàng rào kẽm gai, chọn thời điểm thích hợp này thực
hiện cuộc vượt thoát. Nhiều tiếng súng nổ vang trong đêm khuya vắng
lặng và tiếng kẻng báo động vang dội khắp nơi xa gần, đánh thức mọi
người. Tôi choàng ngồi dậy bước ra cửa coi xem có chuyện gì xảy ra, lính
tráng đơn vị canh gác trại tù này, rầm rập chạy với súng cầm tay la hét
om sòm, bảo phải tắt đèn và mọi người ở trong lán không được đi ra
ngoài…
Sáng hôm sau, cán bộ quản giáo cho biết có 2 anh trốn trại
thuộc đội 35, một anh bị bắn chết tại vòng rào trại, một anh bị thương
và bị bắt đang nằm ở y xá. Trong những ngày kế tiếp, chuyện trốn trại
của 2 anh Quang, Thịnh đã được sáng rõ thêm. Khi quản giáo hỏi đội 34 và
35 có anh nào đem thức ăn cho anh Thịnh đang bị thương, không ai lên
tiếng. Tôi tình nguyện mang thức ăn chánh thức của trại đến tiếp tế cho
anh Phạm Hữu Thịnh. Sau khi mỗ lấy viên đạn còn ghim trong người ra, nay
hồi tĩnh, anh Thịnh lại bị nhốt trong 1 connex, để gần chòi gác, còn bi
thảm hơn, ngày thì nóng như thiêu như đốt, đêm khuya lạnh lẽo đến tận
xương tủy. Mỗi lần đưa thức ăn đến anh Thịnh, trong đầu, tôi xếp sẵn
những câu hỏi, phải thật nhanh và ngắn gọn vì lính gác trên chòi canh
lúc nào cũng nhìn theo dõi tôi khi mang thức ăn đến connex. Nhờ vậy, tôi
biết được khá nhiều về gia cảnh Thịnh, anh còn bà mẹ già, vợ anh gốc
người Hoa. Anh Thịnh còn cho biết sở dĩ anh bị bắn trọng thương vì anh
quay lại cứu bạn mình, anh Quang, quần áo đang bị vướng dây kẽm gai mà
anh gỡ ra còn nhùng nhằng. Lính gác trên chòi canh phát hiện bắn anh
Quang nhiều phát đạn, anh bị thương và nằm dán chặt vào hàng rào. Trong
khi anh Thịnh đã chạy đến cây mít (chúng tôi thường thấy các chị ở Sài
Gòn lên kiếm thăm chồng? đứng lấp ló ở khu cây mít này), cách hàng rào
trại chừng trăm mét. Vừa tới hàng rào dây kẽm gai, anh Thịnh nghe tiếng
súng nổ liên hồi vội quay lưng chạy và một viên đạn cấm vào lưng anh, té
qụy. Theo lời anh Thịnh kể vắn tắt, anh Quang chỉ bị thương còn sống và
cái áo của anh còn dính với mấy móc kẽm gai, đám cán độ trại đến nả bồi
thêm vài tràng đạn nữa, kết liễu đời oanh liệt của một chiến sĩ BĐQ ưu
tú can trường QLVNCH, Quách Hồng Quang, lúc nào 2 chữ sát cộng cũng đến
với binh chủng anh dũng này.
Nếu gia đình chị Thịnh may mắn được
sang định cư ở Hoa Kỳ, xin liên lạc, tôi kể lại những ngày cuối cùng của
anh Thịnh từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn cho đến trước 1 ngày anh Thịnh bị
xử bắn tại trại Suối Máu - Biên Hòa mà tôi “làm gan” trò chuyện với anh
đang ngồi hớt tóc. Anh Thịnh linh cảm sẽ khó sống vì đám cán bộ chấp
cung thường tỏ vẽ muốn giết anh để dằn mặt đám tù còn lại. Anh Thịnh còn
nhân mạnh với tôi, CSBV tàn ác lắm, chúng muốn giết anh, khi mỗ lấy đạn
không có thuốc tê, thuốc mê gì cả. Anh đau đớn quá chết ngất không còn
biết gì nữa, chúng muốn làm gì thì làm, may mà anh còn sống đến ngày bị
xử bắn.
Thành Ông Năm ở quận Hóc Môn, trại tù đầu tiên đã nhốt
chúng tôi, nhưng trại này chỉ là trại trung chuyển, sau mấy tháng lại
chuyển tất cả bò tứ, bò ngũ (thiếu tá, trung tá) về Suối Máu. Đây là
doanh trại của Trung tâm giam giữ tù phiến cộng của Quân Khu 3 để trao
trả với phía bên kia.
Cũng chính trại tù Thành Ông Năm, sau ngày
ra tù, một bác sĩ Quân Y/QLVNCH, Y sĩ thiếu tá Trần Đông A, đã làm cho
nhà cầm quyền cộng sản khiếp phục vì tài mổ 1 cặp song sinh dính lại mà
nhiều nước, lúc bây giờ, thập niên 80 không dám mỗ tách ra. BS Trần Đông
A nhờ đào tạo dưới chánh thể VNCH đã tiến hành ca mỗ thành công và đến
nay BS Trần Đông A vẫn là một trong những bác sĩ giỏi và nổi tiếng nhất
của Việt Nam.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU
Từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn
chuyển về Suối Máu, con đường dài 40 -50 cây số, với đoàn xe quân sự có
hộ tống nghiêm chỉnh, theo lẽ di chuyển một tiếng hay tối đa 2 tiếng
đồng hồ là đến nơi rồi. Đàng này, chúng tôi phải “khẩn trương” tập hợp
hành quân từ 6-7 giờ tối mãi đến hơn 7 giờ sáng hôm sau mới trại Suối
Máu – Biên Hòa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần chúng tôi bị ”bầm vập” thể
xác và tinh thần. Chúng dồn nén đám tù này như con vật, một chiếc xe tải
Molotova nhét cả 1 đội 50 người cùng với đồ đoàng lỉnh kỉnh, chen chúc
ngồi bó rọ, dẫm trên chân trên người nhau. Các xe đều bỏ bạt phủ kín,
không đủ không khí để thở, chỉ một cái đánh rấm của một anh nào đó kể
như mọi người lãnh đủ cái mùi khó chịu không ai thích.
Lần chuyển
trại đầu tiên, từ trường Trung học Pétrus Ký chuyển đến Thành Ông Năm ở
Hóc Môn, chúng tôi đã lãnh đủ cái cơ cực khổ sở của cái vụ chuyển trại
bi thảm này. Được lệnh hành quân khẩn trương, từ 9 giờ tối đã có tiếng
tu-hít (còi) thổi gọi tập họp mọi người. Từ trường Pétrus Ký đến Liên
Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, mười mấy hai chục cây số. Cái dễ sợ nhất là
mỗi đội chúng tôi bị nhốt trong một chiếc xe bít bùng, tiểu tiện phải đi
trong quần vì từ 9 giờ tối đã lên xe, hành quân kiểu gì không biết của
đám khỉ học làm người, mãi đến 6 giờ sáng mới tới Thành Ông Năm ở Hóc
Môn.
Tại Suối Máu, tưởng tôi đã “bỏ mạng sa trường” vì cái bệnh kiết lỵ.
Xin
nhắc lại, tôi từ giã ông Yamoto “đi cải tạo”, khoảng giữa tháng 5.1975,
ông là Trưởng văn phòng nhật báo Asahi (Asahi Shimbun) tại Sài Gòn, một
tờ báo lớn của người Nhật, có số phát hành các ấn bản sáng chiều và chữ
Anh, trên dưới 10 triệu số mỗi ngày. Tôi đã cộng tác với ông Yamoto
trên 3 năm, qua tài liệu, ông đã hiểu hơn tôi về chế độ “tù cải tạo” của
cộng sản, ông biếu tôi vài trăm đô và đặc biệt tặng 2 “túi cứu thương”
để tôi dấn thân vào cõi chết mà ông chỉ nói úp mở. Lúc bấy giờ, thời
chiến cực kỳ khốc liệt, mỗi ký giả ngoại quốc ở Sài Gòn, gọi là ký giả
chiến trường, đều kè kè bên mình một túi cứu thương, gồm đủ các thứ
thuốc, trong đó có nhiều thuốc trị bệnh sốt rét, kiết lỵ, tiêu chảy…May
mắn cho tôi, ông Yamoto và người phụ tá của ông có 2 túi cứu thương, ông
tặng hết. Nhờ có nhiều thuốc nên ở trong trại tù, nhiều bác sĩ phe ta
khám bệnh cho anh em, biết tôi có thuốc tốt, phụ nhĩ với bệnh nhân, đến
tìm anh Ngà xin thuốc, tôi trở thành dược sĩ bất đắc dĩ mà chẳng cần học
trường Dược ngày nào.
Khi tôi bị bệnh kiết lỵ ngặt nghèo, từ cầu
lê lết về đến lán, tôi bước lên thềm không nổi phải bò mới vào được chỗ
nằm và vận dụng hết sức lực còn lại mở túí balô lấy thuốc trụ sinh trị
kiết lỵ uống 2 lần từ tối đến khuya, tôi không đi cầu nữa.
Tại
trại Suối Máu, tôi gặp anh Phạm Đăng Có, Thiếu tá Quân Cảnh, Chỉ huy
trưởng trại giam tù phiến cộng này. Anh Có là em ruột của Đại tá Phạm
Đăng Tấn (đã từ trần cách nay chừng 8 năm ở Virginia, vợ chồng tôi có
đến phúng viếng, tiển đưa), nguyên là Tham Mưu Trưởng QĐ4 & V4CT
thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh, đó là hai ông sếp lớn của
tôi. Người anh kế của anh Có là Trung tá An Ninh Quân Đội Phạm Đăng
Năng, có vợ là bạn học với tôi ở Châu Đốc (anh Năng hiện còn ở VN). Anh
Có rù rì với tôi, tụi VC này ác quá, hồi tôi làm sếp ở đây, đám cán binh
của chúng được nằm giường sắt 2 tầng đàng hoàng, nay chúng cho bọn mình
ăn chay nằm đất.
Tại trại Suối Máu, trước ngày lên đường đi ra
miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” chúng tôi gồm bò tứ và bò ngũ, được học tập
chính sách “khoan hồng nhân đạo” 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam để thông suốt mà hồ hởi phấn khởi ra miền Bắc nghèo mạt
rệp. Cũng chính lúc này, một tòa án quân sự của quân khu 7 VC được thiết
đặt, gần cổng ra vào trại. Cán bộ trại bắt loa gọi anh em “trại viên”
lắng nghe theo dõi buổi xử án 2 người trốn trại, có trực tiếp truyền
thanh. Mỗi đội phải cắt cử 2 người (thường là đội trưởng và đội phó) đi
tham dự phiên xử anh Phạm Hữu Thịnh và một anh Thiếu tá nữa là Nguyễn
Văn Đương thuộc ngành Tình Báo Quân Đội (tôi vừa mới bìết tên anh Thiếu
tá này do một chiến hữu ở Úc Châu gọi điện thoại cho biết) cũng trốn
trại tại Suối Máu. Anh này trốn được ra khỏi trại Suối Máu, đi xe đò bị
chận bắt ở một chốt kiểm soát nào đó, chưa về tới Sài Gòn. Chúng tôi
đang ngồi nghe ngóng, phiên xử khai mạc, nghe rất rõ, khi gọi tên anh
Thiếu tá Đương ra xử. Sau khi luận tội và kêu án tử hình, vẫn trong tư
thế bị còng 2 tay, anh chiến sĩ anh hùng của chúng ta hô lớn đả đảo cộng
sản trước tòa, anh vừa mới nói đả đảo tiếp theo chắc là đả đảo hồ chí
minh. Hai tên bộ đội dùng tay bịt miệng và sau đó anh bị nhét giẻ vào
miệng, kéo sền sệt ra khỏi phòng. Chừng 2 phút sau nghe tiếng súng AK nổ
một loạt mà anh em có tham dự chứng kiến từ đầu. Trong lúc đó, bất ngờ,
dù còn nắng trời đổ mưa như sụt sùi khóc cho một chiến sĩ anh hùng của
QLVNCH bị giết dã man trước họng súng của quân xâm lược. Được biết, đám
cán binh VC không lôi anh chiến sĩ anh hùng này đến pháp trường cát đã
thiết đặt trước mà chúng bắn anh khi ra khỏi nơi xét xử trước một ụ đất .
Buổi chiều, bọn xét xử, rút kinh nghiệm buổi sáng, khi chúng luận tội,
anh Phạm Hữu Thịnh bị nhét giẽ đầy miệng không cho nói lời nào và đưa
đến pháp trường cát kết liễu đời anh, tội nghiệp anh Thịnh bị hành hạ
đày đọa mấy tháng trong connex, thân hình tiều tuỵ, da bọc xương tái
méc, nhưng sắc mặt anh vẫn bình thản, lạnh lùng và vui vẻ khi tôi hỏi
chuyện.
Cộng quân đã đem xử bắn 2 anh em của chúng ta để dằn mặt
đám tù còn lại, trốn trại bắt được là xử bắn, không có khoan hồng nhân
đạo gì ráo trọi.
CHUYẾN TÀU THỦY RA BẮC
Qua 2 lần chuyển
trại trước đây, nay lại chuyển trại lần nữa vào đêm 10 tháng 6 năm 1976,
nghĩa là sau 1 năm chúng tôi nằm tù cộng sản ở miền Nam. Nay lại ra
miền Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ mạt rệp, cũng tập họp từ 7 giờ tối,
bị kiểm tra "tư trang", chúng tịch thu vô số đồ dùng cũng như thuốc men
của anh em chúng tôi. Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi được dồn lên xe chật
ních cũng như 2 lần chuyển trại trước, mãi đến 6 giờ sáng mới bị dẫn
xuống tàu nhỏ, cũ kỹ bẩn thỉu, loại tàu chở vật dụng, heo, trâu, bò…đậu
tại tân cảng Sài Gòn, gần cầu Sài Gòn, trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa.
Mỗi
chiếc tàu loại nhỏ đó chỉ chở 5-7 chục người là nhiều, đàng này chúng
dồn hình như xấp xỉ 3 trăm người vì chúng tôi chỉ nhìn thấy đầu đen và
người nào người nấy, ở trần trùn trục, mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi mà
ngồi chen chúc chịu trận vì không có đủ chỗ nằm. Tôi mạo hiểm lấy ra một
cái võng tự chế khi còn ở Hóc Môn, leo lên thành tàu cao hơn 2 mét mới
có chỗ buộc dây 2 đầu căng võng nằm, còn ở sàn tàu, không ai có thể đặt
lưng nằm được. Bắt chước làm theo tôi có đến cả chục người nữa mà đám bộ
đội áp tải không nói năng gì.
Cái khổ nhất trần gian lúc bấy giờ
là đi tiểu tiện trong 2 cái thùng thiếc miệng tròn dành cho mấy trăm
người. Mỗi ngày, từ trên boong tàu mở nắp ra, thòng dây xuống để chúng
tôi buộc vào thùng phân và nước tiểu lần lượt kéo lên. Vì ở trên cao,
cách hơn 5-6 mét, cái thùng lại nặng, 2 tên bộ độ ì ạch kéo lên khơi
khơi, làm chiếc thùng đầy lượn đảo qua lại bắn nước dơ tung toé, rơi
xuống trúng người nào người đó chỉ biết kêu trời, lãnh đủ, nước không đủ
uống làm sao mà có nước rữa nên phải “khắc phục”. Mỗi lần xếp hàng chờ
“lấy tài” để tống hai cái của nợ, mất vài tiếng như chơi. Rủi hơn nữa
tới phiên mình được phép trút cái nợ đời ra là lúc chiếc thùng đầy ắp,
còn chỗ đâu mà chứa, đành gọi khan cổ xin kéo thùng lên. Chờ “bề trên”
trông xuống hỏi lý do gì mà kêu cứu, họ mới thòng dây xuống kéo thùng
lên, đồ phế thải dơ bẩn đó phải đổ xuống biển, còn rữa nữa mới thòng
thùng xuống lại, thêm một lần nữa, thùng mới rữa lại văng nước tung toé.
Anh em có dịp la lên chí choé, nhưng nước văng lần này tương đối “ thơm
tho” hơn lần trước từ dưới kéo lên. Trong 4 ngày ở dưới hầm tàu này, có
nhiều lần vì đợi tới phiên lâu quá, tôi lại không đi cầu được, đành rút
lui để cho người khác làm “nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa”.
Sau 4
ngày ngất ngư con tàu đi, nhiều người bị say sóng ói mữa tới mật xanh,
may cho tôi, thể trạng tốt không bị ói mữa nên đở tiều tụy hơn nhiều anh
em khác. Cũng vì cái còn khỏe đó mà tôi lãnh cái búa tạ, khi tàu cặp
bến Vĩnh Linh - Đồng Hới, tôi được một thằng bạn mắc dịch lớn giọng đề
cử tôi làm Đội trưởng để “quản lý” anh em trên toa xe lửa khi có 1 tên
bộ đội bảo anh em đề cử đội trưởng.
CHUYẾN TÀU HỎA ĐỊNH MỆNH TRÊN ĐẤT BẮC
Trời
đã bắt đầu tối, từng chiếc tàu cặp bến cầu, đổ người lên đông nghẹt,
xếp hàng đôi “2 hàng dọc, đàng trước thẳng” lần lượt tiến bước có 4-5
con chó trận vừa sủa vừa dẫn đầu. Đèn dầu, đuốc được các người dân nghèo
khổ cầm đứng 2 bên đường với các tên du kích cầm súng trường CKC có gắn
lưỡi lê sáng loáng như hù dọa đám tù đói khổ đang lê lết từng bước nặng
nề, sau 4 ngày nổi trôi lênh đênh trên sóng biển. Không biết dân chúng
bị bắt buộc đứng trên con đường này bao lâu để “chào đón” chúng tôi. Họ
nói chuyện râm rang, bàn tán, chữi đổng… rất ồn ào, bọn tù chúng tôi uể
oải, mệt lã, lầm lũi bước đi như kẻ không hồn. Đến ga xe lửa, cứ 50
người lên 1 wagon (toa), hàng mấy chục cái toa, loại toa tàu lửa để chở
súc vật, đồ đạc, không có ghế ngồi và hoàn toàn kín mít, không có một
cái cửa sổ nhỏ nào cả, 50 người ngồi bó gối chen chúc nhau. Tôi nhận
chân được cái văn minh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đường rầy xe lửa
quá cũ kỹ từ thời Pháp thuộc để lại, những thanh sắt ngang, nay biến đâu
mất tiêu, chắc cán bộ hỏa xa gỡ đem đi bán sắt vụn để “cải thiện’ đời
sống. Thay những thanh sắt ngang bằng những thanh gỗ, khi bánh xe cán
lên nghe âm thanh phập phình, khập khểnh, chúng tôi có cảm tưởng đường
rầy sẽ “banh xà rông” và tàu hỏa sẽ trật bánh, đưa bao nhiêu con người
cùng khổ xuống sông, xuống ruộng… Tàu hỏa chạy suốt đêm, đến gần trưa
tới Nam Định, ngôi giáo đường Công Giáo giữa thị xã Nam Định loang lổ
phong sương như các tín hữu của tôn giáo này đã từng bị chế độ cộng sản
vùi dập không thương tiếc từ năm 1954 khi đất nước VN bị chia đôi.
Vì
tôi là “xếp” toa này, nên được ngồi ngay cửa lên xuống mở hé, có 2 tên
bộ đội ngồi chỉa súng ra ngoài, đó là ân huệ và cũng cái khổ cho tôi.
Đến trưa, trời tháng 5 âm lịch, miền Bắc nóng khủng khiếp, hôm ấy có thể
đến 100 độ F hay cao hơn, toa tàu đóng kín, qua khỏi Nam Định 2 tên bộ
đội biến đâu mất và cửa này hoàn toàn bị đóng khóa chặt ở ngoài. 50 anh
em chúng tôi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, có người ngất xỉu vì thiếu oxy.
Tôi nảy ra sang kiến kêu gọi anh em nào có vật gì bén nhọn như cọng dây
kẽm… ngồi xuống nạy các khe gỗ ở sàn tàu, may ra có kẻ hở để gió lọt
vào mà thở.
May quá, trong balô của tôi còn sót một cái lưỡi cưa
nhỏ xíu và cọng thép dài hơn 1 tấc mà khi còn ở Hóc Môn, tôi dùng trong
việc chạm trỗ trên các cái lược bằng nhôm, đám cán binh xét tới xét lui,
tịch thu biết bao cái “của quý” loại này rồi, nay còn sót 2 món bảo bối
quý hiếm đó. Tôi miệt mài khơi cạy chừng 10 phút , tàu lửa ngừng lại
một ga xép để nhận tiếp tế và tù được nhận 1 thùng nước để uống mà đội
trưởng nhảy xuống toa tàu, khi 1 tên bộ đội đến mở cửa, phải chạy thật
nhanh mang thùng nước về. Khi tôi ra khỏi toa, tên bộ đội lại khóa cửa,
anh em luân phiên cạy, nạy, móc ra từng mảnh rác nhỏ, đất cát… và may
mắn có luồng gió mát thổi vào khi tôi mang thùng nước nặng 20 lít đưa
lên tàu vừa lúc tiếng còi tàu ré lên, từ từ lăn bánh. Anh em mừng quá
vừa có nước uống đở khát vừa có luồng gió mát thổi vào một cái khe nhỏ
bằng đầu chiếc đủa và dài hơn 1 tấc, gặp thanh gỗ bắt ngang nên tắt tị
không “khựi” thêm được nữa. Bây giờ là cái khổ của người đội trưởng, ai
cũng cần khí trời để thở cho khỏe nên anh em khó nhường nhau mà người
đau yếu, nhất là các anh bị suyễn kinh niên ốm yếu chỉ nằm chờ chết, làm
sao chen giành lại với các anh khỏe hơn?. Tôi bèn có quyết định, lựa 4
anh to con như tôi hoặc to khỏe hơn tôi, ngồi chung quanh cái lỗ thông
hơi cứu tinh này. Ai ngất xỉu được ưu tiên chuyển tới lỗ thông hơi hít
thở vài phút, nhường chỗ cho anh khác tới thay. Nhờ anh em toàn là cấp
chỉ huy cũ nên dễ thông cảm và tự thấy mỗi người có trách nhiệm giúp đở
nhau trong cảnh cùng cực này. Dù vậy, càng về trưa, càng oi bức mà trời
lại đứng gió nên có nhiều anh em ngất xỉu, tôi phải vỗ cửa bình bịch kêu
cứu khi xe ngừng lại tại một ga nào đó. Nhiệm vụ của đội trưởng là phải
dìu hay phải cõng anh bị xỉu chạy nhanh đến toa cấp cứu. Toa này chỉ là
toa có nhiều cửa mở toang 2 tên bộ đội ngồi ghìm súng trên đó, anh nào
may mắn được đưa đến đây đều được thoát chết vì được thở không khí ở
ngoài tràn vào. Tôi gặp một anh bò ngũ thân quen đang nằm tại đây và anh
cho biết Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng Khối Kế Hoạch Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị đã tắt thở, không đưa kịp đến toa cấp cứu này và xác anh
ấy bộ đội áp tải cho khiên xuống rồi, cách đây 1 trạm. Tôi vốn quen
biết Trung tá Hùng, vì khi ông đi làm đều phải đi ngang qua Khối Thông
Tin Giao Tế mà tôi đang phục vụ, ở số 2 ter Đại lộ Thống Nhất – Sài Gòn.
Sau này, tôi nghe còn có thêm vài bò tứ hay bò ngũ cũng qua đời trong
chuyến tàu lửa định mệnh này. Nhờ những cái chết oan khiên của các anh
ấy mà từ đó về sau khi chạy ngang Hà Nội cho tới ga cuối cùng Yên Bái,
các cửa lên xuống đều được mở toang để có không khí lùa vào toa. Nhiệm
vụ đội trưởng quá vất vả của tôi cũng chấm dứt tại bến phà Âu Lâu của
tỉnh Yên Bái, sau đúng 1 ngày 2 đêm “nhậm chức”.
ĐƯỜNG LÊN SƠN LA GIAN KHỔ
Đến
nhà ga Yên Bái gần sáng, ngày 16.6.76, bên nây bến phà Âu Lâu, chúng
tôi được lùa đi cũng 2 hàng dọc đàng trước bước. Cán bộ giữ tù thông
báo: Các anh được nhân dân địa phương đón tiếp và mời các anh uống nước
vối cho mát để tiếp tục cuộc hành quân đến các trại. Hai bên vệ đường,
có nhiều thùng nước vối đang còn lửa cháy phừng phực. Trong đời, lần đầu
tiên tôi được thưởng thức nước vối có mùi khói phảng phất của đất Bắc,
uống vào chả ra làm sao và tôi ao uớc nếu có một chén nước trà nóng
trong đêm buồn thảm này uống chắc đả, phê lắm. Đi bộ xuống phà, nghe
nhiều tiếng gà gáy sáng xa xa, báo hiệu một ngày mới nhục nhã và gian
khổ đang chờ đón.
Lên bến bên kia thuộc địa phận khác, có nhiều
đoàn xe molotova chờ sẵn, những người lính áp giải không phân biệt đội
nào, cứ lùa tù lên đầy xe là được, hàng trăm xe lăn bánh đưa chúng tôi
người về Hoàng Liên Sơn, người lên Sơn La, mãi đến chiều, tôi đến Sơn
La, rừng núi ngút ngàn bất tận, đúng ngày 16.6.1976. Sau gần 6 ngày hành
quân kỳ cục và khổ nhọc nhất, tôi đã nhận rõ tương lai mờ mịt của những
người tù bị lưu đày lên xứ “nước Sơn La ma Hòa Bình”, đã đến đây chắc
khó trở về sum họp với vợ con?.
Đoàn xe tù chúng tôi chừng vài
chục chiếc, ước đoán cả 5-6 trăm người được đưa đến tận chân núi, nơi có
2 nhà tù lớn do Pháp khoét sâu vào vách núi, xây mấy chục năm trước để
nhốt tù chánh trị. Sau này CSBV nhốt tù binh Mỹ và Đại Hàn mà vết tích
còn ghi trên vách đá, nay nhốt chúng tôi. Trong đoàn tù này gồm toàn bò
tứ, bò ngũ bên Quân Đội, bổng dưng có một xe toàn bò tam cũng đổ xuống ,
ngành cảnh sát đặc biệt, làm thành một đội riêng.
Chừng 2 tuần
sau nhiều đợt tù kế tiếp được chuyển tới và tiếp tục chuyển tới nữa mà
đa số là những anh em thuộc quân khu 9 của cộng sản, ở miền Tây. Chuyển
từ Cần Thơ ra đây và nhiều anh em cấp đại úy trở xuống trình diện đợt 2 ở
Sài Gòn cũng được chuyển đến xã Mường Cơi này, nơi mà không có đủ nước
sinh hoạt hàng ngày cho cả chục ngàn tù binh mà CSBV gọi chúng tôi khi
mới đặt chân lên xứ này.
Đợt tù đầu tiên đến đây lại gặp gần 100
anh em tù bị bắt từ mùa hè đỏ lửa 1972, ở trận Hạ Lào và đặc biệt có
Trung tá Khương, Chỉ Huy Trưởng BCH Tiếp Vận V1CT bị bắt hồi Tết Mậu
Thân 1968 ở Huế. Tình cờ, trong khi tôi đi lao động cất nhà mới để đón
tiếp các anh em chuyển ra sau, gặp lại anh Nguyễn Văn Thuế, Thiếu tá
Pháo Binh cùng học với tôi tại trường Sinh Ngữ Quân Đội ở đường Nguyễn
Văn Tráng Sài Gòn, cuối thập niên 60 để chuẩn bị đi du học Hoa Kỳ, khi
đó chúng tôi còn đeo lon Đại úy. Anh Nguyễn Văn Thuế bị bắt lọai hàng
binh trong mùa hè đỏ lửa 1972 được CSBV cho ăn bánh vẽ, nghe nói cũng
“le lói” trong hàng ngũ bộ đội CSBV cũng đeo “quân hàm” thiếu tá… Sau
xin đổi qua diện tù binh để được trao trả theo Hiệp Định Ba Lê nên bị
cộng sản đì, không những không trao trả mà còn bị nhốt tù để cùng với
những anh em khác cất thêm trại chờ đón chúng tôi.
Một chuyện hi
hữu và thương tâm làm nhiều anh em chúng tôi không cầm được nước mắt.
Một anh Trung tá (quên tên) cùng ở một nhà với nhà thơ Hoàng Ngọc Liên,
Tô Kiều Ngân, Văn Quang ở bên kia hàng rào, nhà bên này, nằm cạnh tôi có
nhà báo Phan Lạc Phúc (đang ở Úc), chúng tôi chứng kiến một cuộc trùng
phùng hi hữu giũa hai bố con truớc cỗng trại. Khi chúng tôi xếp hàng ra
ngoài lao động “đốn tre đẵn gỗ trên rừng”, anh Trung tá gặp lại đứa con
trai yêu quý của anh, cấp bậc Thiếu úy đã bị ghi nhận là mất tích trong
một trận chiến mùa hè đỏ lửa 72, nay lù lù xuất hiện nhận diện được cha
mình cùng đang ở tù chung trại.
Cũng tại trại Sơn La này, người
tù chết đầu tiên là nhạc sĩ Thục Vũ, tôi lại quên tên, anh là Trung Tá
làm Trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ
hay là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh chết vì đau và sau khi hút
được 1 “bi” thuốc lào thoải mái, anh thanh thản ra đi. Người chết kế
tiếp cũng tại K1 có 2 nhà tù đá kiên cố này là anh Trung tá Tường,
nguyên Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ mà tôi gặp anh
hàng ngày khi chúng tôi cùng làm việc tại đây. Anh Tường chết vì uống
thuốc tự tử, anh chán đời, chán cảnh tù khổ sai không biết ngày nào được
thả ra…
Trại tù Sơn La, khi chúng tôi đến “tạm trú” đầu tiên chỉ
vỏn vẹn có 2 nhà đá có từ trước. Với chừng 100 anh em tù cũ gồm có Biệt
Kích nhảy ra Bắc bị bắt hàng chục năm trước còn sống sót cùng với anh
em bị bắt vào mùa hè đỏ 1972, cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào,
cấp bậc từ hạ sĩ quan đến Trung úy, cấp cao nhứt là Trung tá Khương bị
bắt 1968 tại Huế. Chính toán tiền đạo tù cũ hướng dẫn anh em chúng tôi
cách “lao động xã hội chủ nghĩa” cất thêm doanh trại mới để nhốt tù lần
lượt sẽ được chuyển tới từ trong Nam ra tiếp, trong phạm vi chừng 10 cây
số vuông. Liên trại 2 Sơn La lúc cao điểm có đến 6 trại được phân định
nhốt tù rõ rệt từng cấp bậc. Khu nhà đá gọi là K1, ở sâu trong núi
“chuyên trị” nhốt tù có cấp bậc cao nhất ở đây là Trung Tá, K5 ở đồi chè
Mường Cơi, gần đường lộ chính lên hướng huyện Phù Yên, gồm toàn bò tam
và K6 nhốt toàn bò tứ trong đó có tôi, K6 cũng nằm gần trục lộ chính
huyết mạch của tỉnh Sơn La. Còn K2, 3, 4 mới cất vội vã sau này nhốt các
anh em ở các trại giam từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tập trung tại các
trại giam Cần Thơ và từ đó chuyển đến Sơn La. Tội nghiệp cho các anh em
này đến Sơn La cũng là nơi trung chuyển để Liên trại ở Hoàng Liên Sơn
cất thêm đủ chỗ, các trại K 2,3,4 của Sơn La sẽ chuyển về đó.
Ở tù
cộng sản, trại nào cũng khổ, nhưng mỗi trại tù có cái khổ nhiều ít khác
nhau. Các anh ở miền Tây chuyển trại liên tục và đường lại xa hơn chắc
chắn mệt khổ hơn chúng tôi từ Sài Gòn lên thẳng Sơn La.
TRẠI TÙ HỒNG CA - YÊN BÁI
Chuyện
ở tù cộng sản, chúng ta viết hoài viết mãi cho đến chết cũng chưa có
thể chấm hết được. Có đến 1001 chuyện khổ nhục về sự đối xử dã man tàn
bạo của chế độ lao tù CS, cùng hung cực ác dành cho những người ngã ngựa
của chính thể VNCH.
Đến năm 1978, có tin Trung cộng sẽ dạy cho
CSBV một bài học, như chúng ta biết hồng quân TC đã xua hàng chục sư
đoàn bộ chiến cùng với không yễm và pháo yễm đã tấn công vào các tỉnh
cực bắc VN, giáp biên giới TC vào năm 1979. Ba trại 1, 5 và 6 ở Sơn La
đã có lệnh “di tản chiến thuật” trước từ gần cuối năm 1978. Một nửa trại
6 chúng tôi được chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái do công an quản lý. Đó
cũng là thời điểm, chúng tôi được chuyển sang diện tù thường không còn
là diện tù binh như chúng tôi đến Sơn La được học tập chính sách 8 điểm
của bộ đội cộng sản đối với tù hàng binh.
Chúng tôi thấy có sự
khác biệt rõ rệt. Bộ đội quản lý trại tù có phần dễ dãi đôi chút hơn là
đám công an dùng kỹ luật sắt đối với chúng tôi, mỗi lần di chuyển bằng
xe thì 2 người bị chúng khóa chung 1 cái còng số 8, còn bên bộ đội khi
chuyển từ Nam ra Bắc không bị còng, ngoài trừ quý vị đi bằng máy bay.
Tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng bị công an xén bớt, ăn sắn quanh năm thay
cơm. Chính sắn tươi quy ra gạo cũng bị công an tính gian lận. Thí dụ 1
ký gạo ở bên bộ đội quy ra thành 4 ký sắn tươi hoặc 2 ký sắn lát khô.
Còn bên công an cứ 3 ký sắn tươi quy ra 1 ký gạo, có nơi công an chỉ
tính có 2 hoặc 2 ký rưỡi sắn tươi thành 1 ký gạo, còn sắn lát khô, cứ 1
cân (ký) quy ra thành 1 cân gạo. Tiêu chuẩn về cung cấp đường, thuốc lá,
thuốc lào bên công an cũng rút bớt của tù để chúng bồi dưỡng hoặc mua
bán đổi chác với các hợp tác xã trong vùng.
Tóm lại, tại các trại
tù do công an quản lý bắt người tù lao động cật lực chết bỏ, làm ngày
không đủ tranh thủ làm đêm và có thể lao động cả ngày chủ nhật nữa mà
bên bộ đội ít có xảy ra.
Chúng tôi ở trại 6 Sơn La, hơn một nửa
chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái, số còn lại được chuyển về Nghệ Tĩnh. Còn
trại 1 bò ngũ và trại 5 bò tam cũng vậy một số lớn chuyển lên trại Phù
Yên gần quận lỵ Phù Yên-Sơn La, cách chỗ cũ chừng 20 cây số và một số
chuyển về đâu đó, hình như cũng ở Nghệ Tĩnh.
TRẠI TÂN LẬP – VĨNH PHÚ KHÓ QUÊN
Bi
đát nhất của cuộc đời ở tù cộng sản của tôi, gần đúng 10 năm, là K1 và
K4 liên trại Tân Lập ở Vĩnh Phú. Vì vậy tôi không thể viết qua loa đại
khái giai đoạn này, xin dành cho 1 bài khác vậy. Ở đây, chúng tôi chỉ
tóm gọn, ở tù trại nào cũng khổ mà ai từng ở tù trại Tân Lập so sánh với
các trại tù khác, quả trại này là địa ngục trần gian.
Từ Sơn La
về Hồng Ca-Yên Bái, đây cũng là trạm trung chuyển, ở được vài tháng, ăn
được một cái Tết tại Hồng Ca, tất cả “trại viên” được cho ăn 1 bữa khá
no còn được tặng thêm gần 2 ký sắn luộc lại có kèm thêm đường cát trắng
của Cuba.
Ôi! hạnh phúc biết bao! vì bao năm tháng ở tù cải tạo,
lần đầu tiên tôi được ăn một bữa no và còn có sắn và đường để mang theo
bồi dưỡng cho cuộc hành trình mới, chưa biết lành dữ thế nào?. Ngoài
cổng trại Hồng Ca có nhiều chiếc xe đò loại nhỏ chừng 20-30 chục chỗ
ngồi đậu sẵn để chở chúng tôi về trại Tân Lập Vĩnh Phú. Cứ 2 người đeo
chung 1 cái đồng hồ số 8, tôi cùng đeo chung đồng hồ với Linh mục Trần
Quý Thiện, ngài cùng ở chung với tôi tổ, đội 8 ở trại 6 Sơn La. Nay tôi
được ngồi ghế gần ngài có dịp tâm sự nhỏ to suốt lộ trình dài nên cũng
đở lo nghĩ, sốt ruột. Khi xe đến bến phà Âu Lâu, chúng tôi xuống xe và
đi bộ hai người dung dăng dung dẻ có cặp song hành, lần lượt xe qua hết
thì chúng tôi lại lên xe. Trên đường đi ngang qua khu chợ đang họp vào
buổi sáng gần bến phà, bỗng nhiên tôi bị đau bụng quặn thắt dữ đội. Báo
cáo cán bộ áp giải xin đi ngoài, tên này không cho, tôi làm liều lôi Cha
Thiện vào cái nhà nhỏ bỏ hoang cạnh đường, xin Cha thông cảm giúp tôi
cởi quần cho nhanh và chưa kịp ngồi xuống là cái của nợ của một bữa ăn
no và cộng thêm sắn bồi dưỡng cùng với đường cát trắng biểu tình lần
lượt dzọt ra tới tắp. Tội nghiệp Cha Thiện chỉ biết nhìn trời hiu quạnh
mà hít phải mùi chua lòm của tôi vừa phóng ra. Quả Cha Thiện rất
gentleman ngài xé 1 mảnh báo Nhân dân có sẵn trong túi đưa tôi làm nhiệm
vụ sạch sẽ cuối cùng.
Lên xe, tôi cứ tiếc mãi được một bữa ăn no
lại có thêm bồi dưỡng, nay của thiên trả cho địa mà thân xác tiều tụy
của tôi chắng có hấp thụ được chút chất bổ dưỡng nào.
Về trại Tân
Lập với các đồi sắn chập chùng vô tận do các người tù đến trước trồng
trọt, đám tù sau tiếp tục sự nghiệp đào hóc trồng sắn mệt nghỉ và ăn sắn
quanh năm. Một năm chỉ có 5 lần được ăn 1 chén cơm vào các ngày chiều
30 Tết, trưa Mồng Một Tết, lễ Lao Động 1.5, ngày 2.9 cái gọi là quốc
khánh của CSBV và ngày 1 tháng giêng dương lịch (Tết Tây).
Cái
khó quên của tôi, đội 16 rau xanh sau qua đội 5 trồng sắn mà tôi là
thành viên, có 2 anh cùng đội chết vì trời nắng gắt, Trung tá Nguyễn Văn
Lạc, Trưởng phòng An Ninh QĐ2, Thiếu tá Lê Xuân Hường Trưởng khối CTCT
Liên Đoàn 1 BĐQ. Một ngày nắng cực gắt ấy làm cho các cây sắn như muốn
rũ lá, chúng tôi mắt nổ đom đóm như bị ngộp thở. Ai cũng đội nón đàng
hoàng thế mà anh Lạc, anh Hường và 1 anh Trung tá nữa lăn quay ra chết
và còn một anh cũng bị say nắng được chuyển về trạm xá, đến tối mới
chết. Chỉ một ngày bị say nắng đã 4 con người vô tội đáng thương từ giã
cõi đời. Chính nhờ có 4 cái chết oan nghiệt của các anh ấy đã giúp chúng
tôi từ đó về sau, không còn cảnh lao động trong lúc trời đổ nắng đom
đóm nữa. Đây là cảnh trại K1 vừa kể ở trên, tôi ở Tân Lập từ K2 qua K1
rồi bị chuyển sang K4 và sau cùng là K3 . Từ K3, tôi được chuyển về Nam
từ tháng tư năm 1982, trại Z 30D, thuộc huyện Hàm Tân-Thuận Hải, trại
này ở khu vực có tên là Rừng Lá. Đến cuối năm 1984, tôi được thả ra cùng
với một số đông gần 200 người gồm nhiều cấp tá mà trước đó cấp tá thả
ra rất hiếm hoi.
TRẠI TÙ CHÓT: Z 30D – HÀM TÂN (RỪNG LÁ)
Đến
năm 1982, khi tôi được quy hồi miền Nam, đóng chốt ở trại Z 30D – Hàm
Tân (Rừng Lá), gặp lại nhiều anh em bò tứ bò ngũ trong lần chuyển ra đất
Bắc đầu tiên ngày 10.6.1976. Khi tàu hỏa đến ga chót là Yên Bái, ai đi
toa nào phải sang sông qua phà Âu Lâu sẽ trực chỉ Hoàng Liên Sơn và Sơn
La, toa nào ở lại Yên Bái thì có xe tải đến đón đưa về các trại ở Yên
Bái.
Đợt đi đầu tiên ra đất Bắc, gồm toàn những người mà cộng sản
đã xếp loại nợ máu nhiều, khó mà được thả ra trong vòng 5 - 6 năm như
tin đồn đoán, hầu hết là cấp tá đến cấp tướng bên Quân Đội và bên hành
chánh là những công chức cao cấp đến hàng Tổng Trưởng, các lãnh tụ đảng
phái, tôn giáo, dân cử…
Bên Quân Đội, những vị từ cấp Đại tá đến
Tướng được đi bằng máy bay C130 của ta “bỏ của chạy lấy người”, cứ 2
người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8. Bên công chức cao cấp cũng vậy được
đi bằng máy bay và cũng đeo đồng hồ như bên quân sự. Còn cấp thiếu tá,
trung tá, hàng Giám đốc nha sở trở xuống, các đại úy thuộc Cảnh sát đặc
biệt hay nhiều người cấp chức nhỏ nhưng lọt mắt xanh xếp loại nợ máu
nhiều của chúng cũng được ra Bắc đợt đầu.
Cái bịp của CSBV, không
những chúng bịp các người tù mà chúng còn bịp đối với mọi người dân
lương thiện trong nước và ngay cả nhiều thành phần cán bộ của chúng,
quốc tế cũng bị chúng cho ăn quả lừa bịp.
Trưóc khi chuyển tù ra
Bắc, tại trại Suối Máu-Biên Hòa, CSBV thiết lập tòa án quân sự bắn 2 anh
Thiếu tá trốn trại. Tiếp theo, chúng cho tù học tập chính sách 12 điểm
của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mọi người tù an tâm hồ
hởi phấn khởi sợ mà ở yên “học tập tốt, lao động tốt”.
Sau này,
CSBV dùng tàu lớn như tàu Sông Hương chở 1 lần mấy ngàn người tù đổ
xuống bến ở gần cảng Hải Phòng để có xe lửa hoặc xe tải đưa đến các trại
tù khắp đất Bắc.
Tại Z 30D có 2 K1 và K2 mà tôi được “biên chế”
về K2 ở trong sâu, còn K1 là nơi có BCH trại làm việc nữa. Z 30D là khu
rừng lá buông bạt ngàn, người ta lấy lá làm đủ thứ chuyện. Đường vào K1
và K2 có trồng thật nhiều sua đũa tha hồ mà ăn bông, nếu ăn bông sua đũa
nhiều quá dể bị “tào tháo” đuổi chạy trối chết.
Được chuyển trại
về tới miền Nam, dù ở trại nào, tôi cũng vững tin là mình sẽ còn sống,
lúc ấy quả thật chúng tôi rất vui mừng (hồ hởi phấn khởi) thấy được đoạn
cuối của con đường hầm tối tăm bắt đầu có ánh sáng hé lộ. Khí hậu thời
tiết không còn khắc nghiệt như các tỉnh ở vùng rừng núi miền Bắc, gần
gia đình dễ thăm nuôi và được thông báo những tin tức hấp dẫn, tù cải
tạo sẽ được thả hết qua sự vận động của Bà Khúc Minh Thơ với chánh quyền
Hoa Kỳ. Tất cả tù cải tạo sẽ được qua Mỹ… Nghe vậy chỉ biết vậy và
chúng tôi vẫn bán tín bán nghi, chắc gì Mỹ chịu rước của nợ các ông tù
cải tạo bệnh tật đem qua nuôi báo cô. Chuyện gì đến đã xảy đến tốt đẹp
cho mọi gia đình tù cải tạo từ 3 năm trở lên hoặc ở tù 1 năm và nếu có
tu nghiệp ở Mỹ bất luận bao lâu, cũng được xếp vào diện HO ra đi đàng
hoàng, ngẫng đầu mà đi dưới con mắt khó chịu của cộng sản.
KÉT LUẬN
Ai
đã vào tù cộng trên đất Bắc từ Lào Cai, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh
Phú, Sơn Tây… ở tận cùng miền Bắc xuôi vào Nam qua Nam Đình, Nghệ Tĩnh,
về miền Trung Bình Trị Thiên, Cao Nguyên, miền Đông Nam Bộ cho đến miền
Tây đến vùng cuối Việt Cà Mau, CSBV đã thiết đặt hàng trăm trại tù lớn,
khắc nghiệt, lao động khổ sai, thiếu ăn thiếu mặc, hàng ngàn tù lần lượt
ra đi về bên kia thế giới. Chưa muốn nói là chánh sách nhân đạo của
CSBV xuyên suốt nhằm trả thù cái vụ chúng sinh Bắc tử Nam trong thời
chiến vì chúng đi xâm lược miền Nam nên chúng phải trả giá.
Nay
miền Nam sụp đổ, CSBV trả thù một cách hèn hạ, tinh vi để cho những
người ngã ngựa chết lần chết mòn trong các trại tù đói khổ, lao động khổ
sai và bị hành hạ bỏ đói, đau không thuốc chửa trị…
Chuyện tù
cộng sản không có bút mực nào mà viết hết và vì vậy mà tội ác của chúng
tạo nên căn nghiệp mà luật quả báo của nhà Phật chỉ rõ “chủng quả đắc
quả, chủng đậu đắc đậu” và tội nghiệp cho người dân lương thiện Việt Nam
ở quê nhà cũng bị vạ lây vì luật nhân quả này./.
Trần Văn
No comments:
Post a Comment