Hiện nay, người Việt trong nước đang say mê lối sống của người “Hàn quốc” (South Korea). Người gốc Việt ở hải ngoại cũng không khỏi thán phục sự phát triển thần kỳ của Đại Hàn: trong thời gian ngắn 20 năm, dân tộc Triều tiên đã cải biến một Nam Hàn chậm tiến nghèo tài nguyên thành một quốc gia kỹ nghệ phát triển. Nhiều người Việt còn ưu tư đến tiền đồ Tổ quốc và sự sinh tồn của dân tộc Việt nam thường tự hỏi: Tại sao nước Việt Nam vẫn còn là một trong 10 nước nghèo nhứt thế giới sau 33 năm chấm dứt chiến tranh kể từ năm 1975? Mặc dầu Việt Nam là “con cưng” của Hoa Kỳ và đã nhận được vài chục tỷ đô la tiền viện trợ hoặc cho vay, đầu tư từ Liên hiệp quốc (UNDP), các nước phát triển, các định chế tài chánh quốc tế (IMF,WB,ADB), các nhà đầu tư ngoại quốc và ba triệu người gốc Việt tại hải ngoại, GDP của Việt Nam hiện nay chưa tới 53 tỷ Mỹ kim. Căn cứ theo bản Chỉ số Phát triển Thế giới 2007 của Ngân hàng Thế giới, năm 2005, lợi tức đầu người của Việt Nam chỉ là $620 USD thua xa rất nhiều quốc gia Đông Nam Á và Nam Á:
- Indonesia (150 triệu dân): $1,280 USD, Thái lan: $2,700 USD, Malaysia: gần $5,000 USD, Trung quốc (1
tỷ 300 triệu dân): $1,700
USD, Đại Hàn và Đài
loan:$15,000 USD, Hong Kong: $23,000 USD, Singapore:$25.000 USD.
Mọi
người đều đã có một câu giải đáp
chính xác: Nguyên nhân chánh đã kềm hảm sự phát
triển nước Việt Nam thống nhứt là chế
độ cộng sản toàn trị và sự lãnh
đạo yếu kém, độc tài và tham nhũng của nhà
cầm quyền cộng sản.
Từ
ngày bị cưỡng bức thống nhứt, miền Nam
Việt Nam đã thay đổi quá nhiều theo chiều
hướng xấu. Là một cư dân Sài gòn đã sanh
sống dưới ba chế độ thực dân Pháp,
Việt Nam Cộng Hòa và cộng sản trước khi vượt
biên tị nạn tại Hoa Kỳ, tác giả xin noi theo
gương nhà khảo cổ học Vương Hồng
Xển viết một cách khách quan về miền Nam
Việt Nam xưa và nay để làm tài liệu cho các
thế hệ mai sau xét xem chế độ chánh trị nào
đã phục vụ tốt dân tộc Việt Nam.
I - ĐỊA
LÝ
Căn
cứ theo hiệp ước 1874, miền Nam Việt Nam là
một thuộc địa của Pháp. Dân gian thường
gọi miền đất mới nầy là Nam kỳ
lục tỉnh (Gia Định, Biên Hòa, Định
Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).Về mặt hành
chánh, dứới thời Pháp thuộc (1874-1945), Nam Kỳ
gồm có đô thành (prefecture) Sài gòn-Chợ Lớn và 21
tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây
Ninh, Chợ Lớn, Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Long,
Cần Thơ, Long Xuyên, Sa Đéc, Châu Đốc, Hà Tiên,
Rạch Giá, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
Cap Saint Jacques (Vũng Tàu).
Trong
thời gian chấp chánh (1954-1963), Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã thay đổi địa danh của một
số tỉnh và lập thêm một số tinh mới (Long
Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy, Bình Long, Phước Long,
Phước Thành ở miền Đông, Kiến
Tường, Kiến Phong ở miền Tây).
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, chánh quyền cộng sản đã
cố ý xóa bỏ hai địa danh quan trong nhứt của
miền Nam: thủ đô Sài
gòn của Việt Nam Cộng Hòa bi đổi tên thành
thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Gia Định đã bị xóa tên trên bản
đồ miền Nam Việt Nam mặc dầu Gia
Định là một tỉnh lớn nhứt và cố
cựu nhứt của Nam kỳ lục tỉnh. Nhà cầm
quyền cộng sản đã thay đổi hầu
hết địa danh của các tinh miền Nam nhưng vẫn
giữ nguyên địa danh của tất cả các
tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Phải
chăng miền Nam Việt Nam, kẻ chiến bại,
đã bị đảng cộng sản xem là một
thuộc địa mới của miền Bắc, kẻ
chiến thắng? Chánh quyền cộng sản Việt Nam
đã không bắt chước nước Nga trong việc xóa
bỏ hai địa danh Stalingrad và Leningrad và trở lai tên
cũ của thành phố Saint Peterbourg (Petergrad) dưới
thời Nga hoàng. Từ khi mang tên mới của Nguyễn
văn Ba, người phụ bếp trên tàu Amiral Latouche
Treville đi từ bến Nhà Rồng đến hải
cảng Marseille của Pháp năm 1911, đô thành Sài gòn ngày
nay không còn xứng đáng được thế giới
gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông” (Le Perle de l’Orient)
về các mặt thiết kế đô thi, mỹ quan, môi
trường sống, giao thông, thoát nước v.v…. Sài gòn,
một thành phố hoa lệ đã được xây
dựng theo kiểu Âu châu ở Viễn Đông, nay còn
đâu! Hầu hết các tên đường của đô
thành Sài gòn cũng đã bị đổi tên. Các anh hùng dân
tộc và nhân vật lịch sử của Việt Nam
đã bị xóa tên đường và thay thế bằng tên
của các cán bộ cộng sản. Thậm chí, hai
trường trung học lớn nhứt ở Sài gòn và
miền Nam là trường Petrus Ký và trường Gia Long
(dạy nữ sinh) cũng bị áp đặt phải mang
tên hai cán bộ cộng sản là vợ chồng Lê Hồng
Phong-Nguyễn thị Minh Khai (vợ của Nguyễn
Tất Thành tại Moscowa trước khi lấy Lê Hồng
Phong).
Đại
đa số cư dân của Sài gòn ngày nay là cán bộ
cộng sản và thân nhân của họ đến từ
miền Trung và miền Bắc chiếm ngụ nhà cửa và
khai thác các cơ sở thương mại của tư
nhân miền Nam để làm giàu nhanh chóng. Cư dân Sài gòn
gốc miền Nam đã bị nhà cầm quyền đuổi
đi các vùng “kinh tế mới” hoặc về nguyên quán
ở thôn quê để cướp đoạt nhà cửa của
họ. Nhiều gia chủ đã trở thành người vô
gia cư (homeless), vô nghề nghiệp (jobless) ăn ngủ
ngoài lề đường xó chợ. Cảnh khổ
của “ngụy dân” miền Nam không bút mực nào tả
hết được.
II -
KINH TẾ
Miền
Nam Việt Nam là một vùng đất phì nhiêu, trù phú.
Đồng bằng sông Cữu Long đã cung cấp dồi
dào lúa gạo để nuôi sống cả nước
Việt Nam và xuất cảng vài triệu tấn gạo
mỗi năm. Miền Đông Nam Phần lại rất
thích hợp với việc trồng cây cao su, cà phê, cây
ăn trái và thành lập các khu kỹ nghệ .
A - Dưới
thời Pháp thuộc và Việt Nam Cộng Hòa,
người miền Nam đã có một đời sống
thoải mái và sung túc. Thành thật và hào phóng, họ sống
rất lương thiện và giàu lòng giúp đỡ di dân
từ Bắc vào Nam.
Một dẫn chứng cụ thể
là trường hợp ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc,
thân phụ của Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) khi
lưu lạc đến xã Phú Kiết, quận Bến
Tranh, tỉnh Mỹ Tho đã được một ông
Hội đồng ở Sa Đéc rước về nhà nuôi
dưỡng đến khi qua đời và được
an táng tử tế. Ông Hội đồng tốt bụng
nầy là ông nội của ông Lê Quang Uyển, cựu
Thống đốc Ngân hàng Quốc gia của Việt Nam
Cộng Hòa.
Từ
thập niên 1920, nhiều người khá giả đã có
khả năng gởi con em sang Pháp du học. Trong nhóm
Ngũ Long ở Paris, có hai người miền Nam
(Nguyễn An Ninh, Phan văn Trường), hai người
miền Trung (Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành) và
một người miền Bắc (Nguyễn Thế
Truyền). Phần lớn các sinh viên miền Nam du học
tại Pháp đã sớm trở thành đảng viên
cộng sản đệ tam hoặc đệ tứ
quốc tê: Trần văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch,
Dương Bạch Mai, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu,
Nguyễn văn Tạo v.v.... Chính
những trí thức tư sản nầy đã sớm du
nhập chủ nghĩa Mác xít vào miền Nam Việt Nam trước
khi Hồ Chí Minh, cán bộ cộng sản đệ tam
quốc tế, từ Diên An trở về nước
năm 1940 vì họ yêu nước và thích công bằng xã
hội. Tuy nhiên, họ chỉ là một thiểu số
rất nhỏ trong quảng đại quần chúng
miền Nam không chấp nhận chủ nghĩa cộng
sản.
Trước
năm 1975, dầu giàu hay nghèo, người miền Nam
đã không bao giờ bị đói lạnh và cũng không phải
ăn cơm độn khoai, bắp như người
miền Bắc. Hầu hết các gia đình ở nông thôn
đều có vài héc ta (mẩu tây: 10,000m2) ruộng
đất để xây nhà ở,canh tác và chăn nuôi. Quyền tư hữu ruộng
đất của dân chúng đã được luật pháp
công nhận và nhà cầm quyền tôn trọng.
Trong
thập niên 1960, chánh sách Người cày có ruộng của
chánh phủ VNCH đã cấp phát cho nông dân không có ruộng
đất 3 héc ta đất để canh tác tăng gia
sản xuất nông nghiệp.
Các chủ điền có
nhiều ruộng đất không trực canh đã bị
truất hữu nhưng được bồi
thường xứng đáng theo giá thị trường. Sau
khi thu hoạch mùa màng, nông dân đã được tự do
bán nông sản phẩm do sức lao động của
họ làm ra. Sở hữu chủ ruộng đất
chỉ có nhiệm vụ đóng thuế điền
thổ, thuế suất rất nhẹ.Ngoài sắc thuế
nầy, họ đã không bị bắt buộc phải
đóng góp bất cứ khoản tiền nào khác và cũng không
phải đi công sưu. Không có gia đình nào nghèo đói
đến mức phải bán con gái đi làm vợ khắp
thiên hạ hoặc gởi con đi ngoại quốc làm lao
nô hứng chịu các công việc nặng nhọc và nguy
hiểm.
B -
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc
sống của nhân dân miền Nam đã trở thành khó
khăn, lầm than, khốn khổ. Đại bộ
phần quần chúng đã bị nhà cầm quyền vô
sản hóa bằng nhiều biện pháp thất nhân tâm:
đổi tiền hai lần, tịch thâu tài sản,
đánh tư sản mại bản và tư sản dân
tộc, cải tạo công thương nghiệp, hợp
tác hóa nông nghiệp, quốc doanh hóa tất cả các ngành
nghề hoạt động trong xã hội miền Nam,
kể cả tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa, giáo
dục, từ thiện. Quyền
tư hữu ruộng đất đã bị luật pháp
xã hội chủ nghĩa phủ nhận.
Tất cả
đất đai đều thuộc quyền sở
hữu cùa Nhà nước cộng sản và dần dần
trở thành tư hữu của các cán bộ, đảng
viên cộng sản. Trắng tay, nghèo khổ, mọi
người miền Nam đều phải ăn cơm
gạo xấu trộn sỏi độn với khoai
hoặc bo bo. Lần đầu tiên trong đời,
nhiều người miền Nam phải chịu cảnh vô
gia cư, thiếu đói và áp bức.
Trong hoàn cảnh
bất hạnh nầy, họ đã phải liều
chết vượt biên để trốn chạy khỏi
“thiên đường” công sản, tìm con đường
sống xứng đáng với phẩm giá con người.
Bần cùng, rất nhiều trẻ em các tỉnh trù phú
miền Tây đã bị bán đi Campuchia và nhiều
nước khác hành nghề mãi dâm, hàng vạn phụ nữ
đã bị gả bán như nô lệ cho người
ngoại quốc, hàng trăm ngàn thanh niên nam nữ đã
phải nộp một số tiền lớn để
được gởi ra ngoại quốc làm lao nô cùng
khổ. Ở nông thôn, số dân oan khiếu kiện bị
cán bộ cộng sản cướp nhà đất ngày càng
nhiều nhưng không được tòa án hoặc các
cấp thẩm quyền giải quyết thỏa đáng.
Ở thành thị, nhân dân lao động sống với
nghề xích lô máy, xe ba gác và bán hàng rong đã bị nhà
cầm qưyền cộng sản cấm hành nghề
nhưng không giải quyết vấn đề công ăn
việc làm của họ. Tiếng nói của người
nghèo khổ đã không được các “quan chức”
cộng sản lắng nghe! Đời sống của hai
giai cấp công nhân và nông dân trong “thiên đường”
cộng sản ngày càng bi đát.
Trong thời kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chỉ có giai cấp cán bộ đảng
cộng sản, gia tộc và các bộ hạ làm áp phe
của họ mới giàu có và sống xa hoa phung phí với
tài sản to lớn của các nhà tư bản. Giai cấp
tư bản mới nầy chỉ chiếm dưới 10%
dân số Việt Nam nhưng được hưởng trên
35% lợi tức quốc gia. Tỷ lệ phân phối
lợi tức cho giai cấp tư bản đỏ ở
Việt Nam cao hơn Trung quốc (34%) và Hoa Kỳ (32%).
Sự phân phối lợi tức quốc gia bất công
đã gây ra một khoảng cách giữa giàu nghèo, giữa
nông thôn và thành thị ngày càng sâu rộng. Giai cấp tư
bản đỏ đã trở thành một giai cấp phong
kiến, bóc lột, kiêu căng trong xã hội xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
III - CHÁNH TRỊ
A -
Dưới thời Pháp thuộc (1874-1945)
Trước
năm 1945, Nam kỳ đã được đặt
dưới một hệ
thống luật pháp tiến bộ của một
nước dân chủ Tây Âu. Nhà cầm quyền Pháp gồm
các viên chức cao cấp chuyên nghiệp tốt nghiệp
trường Quốc gia Hành chánh (Ecole Nationale d’Administration)
hoặc các trường đại học danh tiếng. Các
viên chức trung cấp là người bản xứ trúng
tuyển trong các kỳ thi nhập các ngạch công chức đã
được tổ chức một cách công minh và tự
do. Một số người Nam Kỳ tốt nghiệp
trường đại học Luật khoa Hà nội
hoặc trường Luật và Hành chánh (Ecole de Droit et
d’Administration) ở Hà nội đã được bổ
nhiệm giữ các chức vụ trung cao cấp trong
nền hành chánh thuộc địa. Nói chung, nhà cầm quyền từ trung
ương đến địa phương đều có
học vấn cao, tinh thần trọng pháp và liêm chánh.
Mặc dầu là thuộc dân Pháp (sujet francais), người
dân Nam kỳ đã được hưởng đầy đũ các quyền tự
do căn bản của con người do bản Tuyên
ngôn quyền con người và quyền công dân (Declaration des
droits de l’homme et du citoyen) năm 1789 (đã được bổ
túc năm 1793) bảo đảm cho công dân Pháp: an toàn cá nhân,
tự do lập đảng, hiệp hội và nghiệp
đoàn, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự
do tôn giáo và tín ngưỡng, tư do tham gia cộng vụ,
tự do giáo dục, tự do cư trú, di chuyển và
xuất ngoại v.v…Căn cứ vào đạo luật 1881
về tự do báo chí,
Nguyễn An Ninh đã xuất bản tờ La Cloche Felee
(Chuông Rè) để công khai chỉ trích chế độ
thực dân Pháp. Bùi Quang Chiêu và Trần văn Ân đã chánh thức thành lập
đảng Lập hiến để tranh đấu
cải cách chế độ cai trị của Pháp mà không
hề bị nhà cầm quyền Pháp trừng phạt. Nói
cụ thể, người dân thuộc địa Nam
Kỳ đã được hưởng đầy
đũ nhân quyền cũng như người Pháp:
-
An toàn cá nhân: Không ai có
thể bị giết chết, bắt giữ, cầm tù,
đánh đập nếu không phạm tội hình và bị
tòa án truy tố, xét xử căn cứ theo hai bộ
luật hình sự canh cải (code penal modifie) và hình sự
tố tụng (code de procedure penale). Các hành động
giết người, giam giữ, đánh đập bất
hợp pháp người bản xứ của nhân viên công
lực đã bị tòa án trừng trị nghiêm khắc.
-
Tự do cư trú và di chuyển: Người dân có quyền cư trú tại
bất cứ nơi nào và di chuyển từ Nam kỳ
đến Bắc kỳ, Trung kỳ, Lào, Cao Miên hoặc các
nước khác nếu có giấy “thuế thân” hay chứng
chỉ lý lịch cá nhân (titre d’identite). Nhà cầm quyền
Pháp trước năm 1945 đã không áp dụng chế
độ hộ khẩu và chế độ xin phép di
chuyển khỏi nơi cư trú như nhà cầm quyền
cộng sản sau năm 1945.
-
Tự do tôn giáo và tín ngưỡng: Tín đồ có quyền tự do thờ
phượng và cầu nguyện tại các chùa chiền, am
tự, nhà thờ, hội thánh, nhà nguyện, thánh thất
hoặc tư gia. Tu sĩ các tôn giáo được tự
do truyền đạo, hành đạo, giảng đạo.
Thực thi luật tách rời Nhà nước khỏi Tôn
giáo (Separation de l’Eglise et de l’Eat) ban hành năm 1905 tai Pháp, nhà
cầm quyền thực dân tuyệt đối không can
thiệp vào lãnh vực tôn giáo và không bao giờ thành lập
các tôn giáo quốc doanh cũng như Ban Tôn giáo ở các
cấp để kiểm soát hoạt động của
các tôn giáo như nhà cầm quyền cộng sản đã
làm sau nầy. Chánh quyền Pháp cũng không hề tịch
thu đất đai và tài sản của các tôn giáo.
-
Tự do tham gia công vụ: Trong
thời Pháp thuộc, sự tuyển dụng công chức
không căn cứ vào lý lịch, đảng tịch
hoặc gia thế. Theo quan niệm của Pháp quốc và các
nước Tây Âu, các cơ quan hành chánh, cảnh sát công an,
quân đội, tòa án phải phi đảng phái và giữ
vai trò trung lập trong bộ máy Nhà nước. Mọi
người dân Nam Kỳ đều có quyền
được tuyển dụng làm công chức thông qua các
kỳ thi tuyển. Ngay cả một số người
từ Bắc kỳ, Trung kỳ vào Nam lập nghiệp
cũng đã trở thành công chức cao cấp. Ông
Đốc phủ sứ Vũ Tiến Huân, cựu Phó Đô
trưởng Sài gòn-Chợ lớn, là một trường
hợp điển hình.
B -
Dưới chế độ Việt Minh (1945-1954)
Thời
kỳ thái bình thạnh trị của Nam kỳ đã
chấm dứt kể từ ngày một thiểu số cán
bộ cộng sản thuộc Đệ tam quốc tế
do Trần văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch, Dương
Bạch Mai và Nguyễn văn Trấn lãnh đạo
cướp chánh quyền tại Sài gòn vào cuối tháng 8
năm 1945. Cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân
tộc” do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản phát
động để áp đặt chủ nghĩa cộng
sản đã gây ra quá nhiều thảm họa cho nhân dân
miền Nam:
-
Nhiều nhà hoạt động chánh trị và trí thức
yêu nước đào tạo ở ngoại quốc đã
bị Việt Minh ám sát, thủ tiêu. Trong số nạn nhân
của bọn cộng sản Đệ tam quốc tế
có nhiều đảng viên cộng sản Đệ tứ
quốc tế.
-Vô
số thường dân vô tội đã bị Việt Minh
xử tử không cần xét xữ, đánh đập tàn
nhẫn hoặc giam giữ vô thời hạn vì bị
chụp mũ là Việt gian, gián điệp.
-
Trong vùng kiểm soát của Việt Minh ở các thôn làng
hẻo lánh, phần lớn nhà cửa của dân chúng, các
cơ sở công cộng, đình chùa, chợ búa,
trường học đều bị thiêu hủy. Thôn dân
bị Việt Minh khủng bố và cưỡng bức đóng
góp cho “Cách mạng” tài vật, tiền bạc, lương
thực, thuốc men, lao động, nhân lực cho bộ
đội, nơi trú ẩn trong nhà cho cán bộ cộng
sản.
-
Trong vùng kiểm soát của quân đội Pháp và chánh
quyền quốc gia, Việt Minh đã gia tăng các
hoạt động khủng bố, ám sát, giết
người tại các nơi công cộng, kinh tài mạo
hiểm để đánh dấu sự hiện diện
của cộng sản, đồng thời phá hoại các
trục lộ giao thông, cầu kỳ và cơ sở
tiện ích công cộng, tổ chức và xúi dục các
cuộc biểu tình, bải khóa, đình công, bải thị
để gây bất ổn chánh trị, xáo trộn xã
hội miền Nam.
-
Chiến tranh du kích và phá hoại đã cản trở
sản xuất nông nghiệp, giảm thiểu thu nhập
của nông dân, bắt buộc một số đáng kể
gia đình phải rời bỏ nông thôn đi về thành
thị lánh nạn, làm ăn sanh sống một cách chật
vật, chui rúc trong các căn nhà lá chật chội.
-
Trong hoàn cảnh chiến tranh, nhân quyền và các quyền
tư do căn bản của nhân dân miền Nam đã
dần dần bị Việt Minh hủy bỏ, nhứt là
tại nông thôn.
Trong
chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Việt Minh
đã đình chỉ thi hành hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam độc lập ban hành
năm 1946 để lợi dụng tình trạng vô luật
pháp cai trị nông thôn và rừng núi một cách tùy tiện
theo ý chí của hai lãnh đạo cộng sản (Lê
Đức Thọ, quê Nam Định, và Lê Duẫn, quê
Quảng Trị). Vì cướp chánh quyền bằng
bạo lực, Việt Minh là
một nhà cầm quyền bất hợp pháp do đảng
cộng sản lãnh đạo đã phủ nhận tất
cả quyền con người và quyền tự do căn
bản của người Nam bộ đã
được hưởng dưới thời Pháp thuộc. Mù quáng tuân hành các giáo
điều của chủ nghĩa cộng sản do Karl
Marx, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông truyền dạy,
Việt Minh đã không từ bỏ bất cứ hành
động gian ác và ghê tởm nào. Dân chúng nông thôn Nam bộ
rất kinh sợ các hành vi khủng bố, giết
người, bắt cóc, thủ tiêu rất dã man của các
cán bộ cộng sản. Bầu không khí sợ hãi bao trùm khắp
các vùng bưng biền và chiến khu do Việt Minh kiểm
soát. Ngoài lo sợ bom đạn, chết chóc và tù đày vô
thời hạn, sự khan hiếm lương thực,
thuốc men, dịch vụ y tế và giáo dục đã
khiến cho dân chúng nông thôn càng thêm cực khổ.
C -
Dưới chế độ quốc gia Việt Nam
(1946-1954)
Dân
chúng miền Nam sống dưới quyền kiểm soát
của chánh quyền quốc gia từ năm 1946
đến năm 1954 đã có
một cuộc sống thoải mái và tự do.
Dưới quyền lãnh đạo của một Thủ
Hiến (governor) do Quốc trưởng Bảo Đại
bổ nhiệm, Nam phần đã có một nền hành chánh
hữu hiệu và lành mạnh, một nền tư pháp
chuyên nghiệp và độc lập, một hệ thống
luật pháp tương đối hoàn chỉnh và một
quân đội quốc gia với đầy đũ
hải, lục, không quân. Chế độ pháp trị
của nước Việt Nam thống nhứt (gồm có
Nam phần, Trung phần và Bắc phần) đã
được xây dựng trên nền tảng hai đạo
dụ số 1 và số 2 của Quốc trưởng
Bảo Đại ban hành ngày 1-7-1949 để tổ
chức nền hành chánh trung ương và địa
phương của nước Việt Nam độc
lập và thống nhứt. Áp dụng nguyên tắc
địa phương phân quyền, Thủ Hiến
điều khiển và kiểm soát guồng máy hành chánh
địa phương bao gồm đô thành Sài gòn - Chợ
lớn, các tỉnh, thị xã, quận và xã ấp ở Nam
phần. Các công chức cao cấp đều có nhiều
kinh nghiệm và kiến thức cao, hầu hết
đều tốt nghiệp các trường đại
học trong nước và ngoại quốc. Các công chức
trung cấp cũng phải trúng tuyển trong các kỳ thi
nhập ngạch công chức đã được tổ
chức một cách vô tư, công bằng và minh bạch.
Dưới
chế độ Quốc trưởng Bảo Đại, người dân Nam phần đã
được luật pháp bảo đảm đầy
đũ tất cả quyền con người và quyền
tự do của công dân một quốc gia độc
lập. Nói cụ thể hơn, mọi người dân
đều có các quyền tự do kể sau:
-
Quyền an toàn cá nhân:
Người dân Nam phần đã được bảo
vệ triệt để quyền an toàn cá nhân như
dưới thời Pháp thuộc. Quyền an toàn cá nhân là
một quyền thiêng liêng nhứt của con người.
-
Tự do sở hữu
ruộng đất, nhà cửa, tài sản: Quyền
tư hữu cũng là một quyền thiêng liêng của con
người chớ không phải là một tội phạm. Nhà
nước có quyền trưng dụng tài sản của
tư nhân để thực hiện các công trình lợi ích
chung nhưng phải bồi thường xứng đáng
cho sở hữu chủ theo giá thị trường.
-
Tự do kinh doanh và cạnh
tranh trong tất cả các ngành nghề ngoại trừ
lãnh vực quốc phòng. Lãnh vực tư doanh rất
rộng lớn. Xí nghiệp quốc doanh bị hạn
chế trong phạm vi quốc phòng và an ninh quốc gia.
-
Tự do báo chí: sách, báo và
phim ảnh của tư nhân xuất bản tràn đầy
và phát hành khắp nơi trong nước.Riêng tại Sài gòn
đã có cả trăm nhựt báo, tuần báo, bán nguyệt
san và nguyệt san do tư nhân xuất bản. Các nhà in và
cơ sở phát hành sách, báo, phim ảnh thuộc quyền
sở hữu của tư nhân và do tư nhân quản lý. Nam
Cường là một nhà phát hành sách báo quen thuộc tại
Sài gòn. Các nhựt báo Sài gòn mới, Thần Chung, Tiếng
Chuông, Tiếng Dội, Thời đại mới, Journal
d’Extreme Orient v.v…đều do tư nhân xuất bản.
-
Tự do tư tưởng và
ngôn luận: mọi người đều có quyền
hội họp và thảo luận về các vấn
đề chánh tri, kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền
phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm cá nhân không
hề bị cấm đoán.
-
Tự do tôn giáo và tín
ngưỡng: mọi người đều
được tự do thờ phượng và cầu
nguyện theo đức tin; truyền đạo và hành
đạo không cần phải xin phép chánh quyền.
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo,
Đại đạo Tam kỳ phổ độ (Cao
Đài), Ấn độ giáo, Hồi giáo, đạo B’Hai
v.v.. đã công khai hoạt động như dưới
thời Pháp thuộc mà không cần phải xin phép Nhà
nước hoặc quốc doanh hóa. Tín hữu nhóm họp
tại tư gia để thờ phượng và cầu
nguyện chung không bao giờ bị Nhà nước xem là vi
phạm luật pháp.
-
Tự do lập đảng và
lập hội: Nhiều chánh đảng đã thành
lập và hoạt động công khai (Việt Nam Quốc
dân đảng của Nguyễn Hòa Hiệp, Đại
Việt Quốc dân đảng của Nguyễn Tôn Hoàn và
Phan Thông Thảo, Đảng Xã hội của Phan Bá Cầm
v.v…); nhiều Tổng Công đoàn (Lao công, Lao động và
Lực lượng Thợ thuyền), nghiệp đoàn công
nhân, nghiệp đoàn chủ nhân, hiệp hội đã do
tư nhân chánh thức thành lập và điều khiển.
-
Tự do biểu tình, xuống
đường, đình công, lãng công: Người dân có
quyền bày tỏ ý kiến công khai qua các cuộc xuống
đường, công nhân có quyền tranh đấu bảo
vệ quyền lợi của mình bằng các biện pháp
biểu tình, đình công, lãng công mà không bị nhân viên công
lực đàn áp, đánh đập.
-
Tự do khiếu nại và
khiếu tố: Nếu cảm thấy quyền con
người và quyền tự do căn bản của mình
bị xâm phạm, người dân có quyền khiếu
nại hoặc khiếu tố. Tòa án hoặc các cơ quan
hành chánh có thẩm quyền có nhiệm vụ giải
quyết thỏa đáng các khiếu tố hoặc
khiếu nại của người dân. Ngoài ra, trong
guồng máy hành chánh của Nam phần còn có các cơ quan
kiểm soát có thẩm quyền thanh tra và điều tra các
khiếu nại của người dân. Báo chí và các cơ
quan dân cử (Hội đồng Đô thành Sài gòn-Chợ
lớn, Hội đồng thị xã, Hội đồng
tỉnh, Hội đồng xã) cũng có quyền
điều tra để đưa ra ánh sáng các hành vi sai
trái hoặc phạm pháp của cơ quan Nhà nước
bị khiếu nại.
Sự
no ấm, tự do, độc lập và hạnh phúc của
người dân Nam phần là kết quả tốt
đẹp của một chiến lược sáng suốt
do Cựu Hoàng Bảo Đại áp dụng:
-
Tranh thủ độc lập
và thống nhứt nước nhà một cách ôn hòa bằng
đường lối ngoại giao: hiệp ước
Elysee đã được ký kết ngày 8 tháng 3 năm 1949 giữa
Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và Cựu Hoàng Bảo
Đại công nhận nền độc lập và
thống nhứt của nước Việt Nam.
-
Hướng về
phương Tây (West) để phát triển quốc gia
về các mặt chánh trị, kinh tế, khoa học kỹ
thuật, văn hoá, giáo dục và xã hội. Từ năm
1948, Quốc trưởng Bảo Đại đã đi
theo con đường canh tân nước Nhựt của
Minh Trị Thiên hoàng trong hậu bán thế kỷ 19
để thu hồi độc lập, thống nhứt
đất nước không tốn một giọt máu
của người dân Việt và phát triển quốc gia
Việt Nam theo đường hướng Tây phương
hóa (westernization) dưới ánh sáng của Tây Âu và Hoa Kỳ.
Trong
khi chánh quyền quốc gia của Quốc trưởng
Bảo Đại hướng về phương Tây (Tây Âu
và Hoa kỳ), Hồ Chí Minh và đảng cộng sản
Việt Nam lại hướng về phương Đông
(Trung quốc và Liên xô), tiến hành chiến tranh ý thức
hệ để chiếm đoạt chánh quyền bằng
bạo lực cách mạng và bành trướng chủ
nghĩa cộng sản dưới chiêu bài “giải phóng dân
tộc”. Nhằm mục đích áp đặt chủ
nghĩa cộng sản trên bán đảo Đông
Dương, đảng cộng sản Việt Nam đã
tình nguyện làm tay sai của Trung quốc “vĩ
đại” và Liên xô “vĩ đại” để
được viện trợ (có hoàn lại) các
phương tiện chiến tranh giết hại
đồng bào ruột thịt, tàn phá đất
nước, làm khổ dân lành. Hồ Chí Minh và các đồ
đệ của y đã không biết một bí ẩn
lịch sử: Chậm phát triển hơn Tây Âu trong
thế kỷ 19, nước Nga đã có một tranh chấp
lâu đời với các nước Tây Âu, ngoại trừ
nước Pháp (đã ký một hiệp ước liên minh
với Nga năm 1895). Vì vậy, Liên xô đã lợi dụng
chủ nghĩa cộng sản của hai người
Đức (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá Tây
Âu từ trong nội bộ của các nước
nầy và từ các thuộc địa của các
đế quốc Tây Âu ở châu Á và châu Phi. Với ác ý thúc
đẩy các nước Tây Âu tàn sát lẫn nhau, Liên xô đã
ký kết với Đức quốc xã của Adolf Hitler hiệp ước bất tương
xâm (non aggression treaty) Molotov-Ribbentrop Pact ngày 23 tháng 8 năm
1939 sau khi nước Đức xâm lăng Tiệp khắc
và Ba lan, mở màn cuộc thế chiến thứ 2. Không thích
thú gì với chủ nghĩa cộng sản, Liên xô sẽ vứt
bỏ chủ nghĩa không tưởng nầy vào sọt rác
khi đã phát triển khoa học-kỹ thuật ngang bằng
hoặc cao hơn Tây Âu.
(Tùng
Phong, Chính đề Việt Nam, nhà xuất bản
Đồng Nai, Sài gòn, thời đệ nhị Cộng
Hòa).
Liên
xô đã thật sự làm việc nầy năm 1992. Chính
Vladimir Illyich Lenin trước khi qua đời năm 1924 cũng
đã tỏ ra khinh miệt những người Tây phương
có cảm tình với các mục tiêu của chủ nghĩa mác
xít khi y gọi họ là những kẻ “ngu dốt hữu dụng”
(useful idiots).
(
Gregg Cunningham, Russia as peacekeeper? Absurd. The Orange County Register
August 24,
2008)
Hồ
Chí Minh, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh,
Phạm văn Đồng, Đỗ Mười và những
nhân vật đầu sỏ của đảng cộng sản
Việt Nam rất xứng đáng được Lenin đánh
giá thấp như vậy.
Cũng
như Nga, Trung quốc vẫn còn hận thù các nước
trong bác quốc liên quân đã xâu xé nước Tàu trong
thế kỷ 19. Mối thù lâu đời nầy đã thúc
đẩy Trung quốc lợi dụng chủ nghĩa
cộng sản để sai khiến các nước
thuộc địa Á Phi trong đó có Việt Nam nổi
dậy chống các đế quốc Tây phương.
Mặc dầu là kẻ thù của Tây Âu và Hoa Kỳ, Liên xô
và Trung quốc vẫn học tập đường
lối phát triển của Tây phương. Tuy nhiên,
hiện nay, Nga và Trung quốc
vẫn còn thua kém Hoa kỳ và Tây Âu về mặt phát
triển đất nước. Sau 30 năm đổi
mới kinh tế, Trung quốc vẫn còn là một quốc
gia đang phát triển với GDP từng đầu
người 1,700 USD. Năm 2007, nền kinh tế của
nước Nga đứng hạng 11 trên thê giới với
GDP 1, 290 tỷ USD nhưng nhỏ nhứt trong các
nước G8 mặc dầu Nga rất giàu tài nguyên thiên
nhiên, nhứt là dầu hỏa và khí đốt. Thu nhập
bình quân đầu người của Nga chỉ bằng
phân nửa của Đại Hàn.
(The
Orange County Register 08-08-2008, The Globalist Quiz: Answers).
Tình
trạng kinh tế kém phát triển của nước Nga là
hậu quả của chế độ cộng sản Liên
xô trị vì 73 năm trên quê hương của cách mạng
vô sản với biết bao xương máu, nước
mắt và trên 20 triệu sinh mạng đã bị nhà
độc tài Josef Stalin tàn sát. Ngự trị Liên xô trong ba
thập niên với nhiều thủ đoạn sắt máu,
Stalin là cấp chỉ huy của Hồ Chí Minh, cán bộ
đệ tam quốc tế cộng sản từ năm
1924. Stalin là người nước Georgia, một cựu Cộng
hòa độc lập của Liên bang Xô viết ở Đông
Âu. Hiện nay, tượng đồng của Stalin vẫn
còn tồn tại trong thành phố Gori của Cộng hòa
Georgia thân Hoa Kỳ vừa bị quân đội Nga tấn
công trong dịp khai mạc Thế vận hội 2008 tại
Bắc Kinh
Hận thù của Nga sô và Trung
quốc đối với các nước Tây Âu và Hoa Kỳ
là nguyên nhân chánh của hai cuộc chiến tranh Việt Nam đã kéo dài từ 1945 đến 1975. Trong
cuộc tranh chấp giữa chế độ cộng
sản độc tài tàn bạo của Hồ Chí Minh và
chế độ quốc gia chánh danh của Cựu Hoàng
Bảo Đại, quảng đại quần chúng Nam
phần hậu thuẫn chánh quyền Sài gòn vì chánh quyền
nầy đã tạo cho họ một cuộc sống
thoải mái về cả ba mặt vật chất, tinh
thần và tâm linh. Cán binh cộng sản đã phải co
cụm lại trong các chiến khu Đ, Hắc Dịch,
Dương Minh Châu, Bời Lời ở miền Đông,
Đồng Tháp Mười và U Minh ở miền Tây Nam
phần. Hầu hết các cơ sở hạ tầng
của cộng sản ở nông thôn Nam phần đã
bị chánh quyền quốc gia tiêu diệt từ năm
1953 dưới thời Chánh phủ Nguyễn văn Tâm.
Nhưng
ở Bắc phần, với viện trợ hùng hậu về
phương tiện chiến tranh và binh lực của Trung
quốc và Nga sô, bộ đội Võ Nguyên Giáp đã
chiến thắng quân trú phòng Pháp-Việt tại
Điện biên phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 nhờ có
sự tham chiến trực tiếp của quân đội
giải phóng Trung quốc. Nếu không có sự giúp đỡ
của tướng Vị Quốc Thanh và nhiều đơn
vị pháo binh Trung quốc thì chưa chắc Đại tướng
Việt Nam cộng sản Võ Nguyên Giáp đã có thể chiến
thắng Thiếu tướng Pháp De Castries tại trận Điện
biên phủ. Ảnh hưởng lớn lao của Trung cộng
trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ nhứt
đã được hai nhân vật lãnh đạo của đảng
Cộng sản Việt Nam vạch rõ như sau:
- Trong thời gian lưu vong tại
Trung quốc, Hoàng văn Hoan, cựu ủy viên bộ Chánh
trị và Đại sứ lâu năm của cộng sản
Việt Nam tại Bắc kinh, đã công bố hồi ký tiết
lộ rằng từ năm 1950 đến năm 1954, Bắc
kinh đã gởi qua Bắc Việt rất nhiều cố
vấn để chỉ huy bộ đội và chánh quyền
Việt Minh.
(Hoàng
văn Hoan, Một giọt nước trong một đại
dương, Kỷ niệm cách mạng, Paris, 1989).
- Chính Đại tướng Võ
Nguyên Giáp cũng đã gián tiếp công nhận năm 1964 sự
đóng góp của Trung quốc: “Kể từ năm 1950, sau
chiến thắng của Tàu (cộng), bộ đội và
nhân dân ta đã có thể học được nhiều bài
học quý báu từ Quân đội giải phóng Trung quốc.
Chúng ta đã có thể tự giáo dục chúng ta nhờ tư
tưởng chiến tranh của Mao Trạch Đông. Đó
là yếu tố chánh đã quyết định sự trưởng
thành của quân đội ta và góp phần vàơ các chiến
thắng liên tiếp của chúng ta.”
(Nhật
báo Nhân dân ngày 7 tháng 5 năm 1964, Các nhà cách mạng Đông Dương)
(Stephane
Courtois, Le Livre noir du communisme, page 505, Robert Laffont,1997).
Trong
khi Trung quốc công khai tham chiến tại Điện biên
phủ, Hoa kỳ, nước lãnh đạo thế giới
tự do sau thế chiến 2, đã rất dè dặt trong
việc trong việc can dự vào cuộc chiến tranh Đông
Dương. Vì Thủ tướng Anh năm 1954 là Winston
Churchill không đồng ý can thiệp quân sự vào chiến
trận Điện biên phủ, e ngai có thể tái diễn
chiến tranh tại Triều Tiên vừa chấm dứt năm
1953, Hoa Kỳ đã đình chỉ thi hành kế hoạch
can thiệp quân sự (operationVautour) do Đô đốc Arthur Radford, Chủ tịch Ủy
ban Tham mưu hổn hợp của quân đội Mỹ,
thiết lập.Theo kế hoạch nầy, Hoa kỳ dự
định sẽ sử dụng một số lớn phi cơ
Mỹ tại Philippines và trên các hàng không mẫu hạm tại
Thái bình dương oanh tạc phá hủy các ổ trọng
pháo của Trung cộng bố trí xung quanh khu lồng chảo
Điện biên phủ.
(David
Lan Pham, International Political-Cultural Influences on Vietnam in the 20th
Century, Xlibris Corporation, USA, 2003)
Sự
dè dặt của Anh-Mỹ trong cuộc chiến tranh nóng
ở Đông Dương đã vô tình giúp cho đảng
cộng sản Việt nam đạị thắng tại
Điện biên phủ, thống trị miền Bắc
Việt Nam từ năm 1954 để làm bàn đạp
cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, thống nhứt
đất nước dưới chế độ cộng
sản độc tài toàn trị kể từ ngày 30 tháng 4 năm
1975.
Đó là một định mạng éo le Thượng đế
đã an bài cho đất nước và dân tộc Việt
nam!
PHẠM
ĐÌNH HƯNG
Westminster,
ngày 05-09-2008
No comments:
Post a Comment