Saturday, February 9, 2013

Tản mạn về làng mạc Miền Nam - Kỳ 2

Tác Giả
Lương Thư Trung

  Có thể nói, tất cả làng mạc miền Nam nằm dọc theo hai bên dòng kinh, dòng rạch, bên con đường làng, con đường liên tỉnh với nét đặc thù của nó.

   Nghĩa là làng mạc miền Nam phải nằm trên trục giao thông đường thủy, đường bộ. Khác với miền Trung mà tôi có dịp đi vào những làng quê ở Diên Khánh, Cam Lâm, Ninh Hòa (Nha Trang), ở Tuy Phong, Phan Lý Chàm (Phan Thiết), làng quê ở rải rác theo chân núi hay trên những thửa ruộng nhỏ với những lối mòn theo con đê nhỏ dẫn ra quốc lộ 1. Lại càng không giống với buôn làng miền cao nguyên như Ban Mê Thuộc, Lâm Đồng, Pleiku, Kontum.























 Tắc ráng chạy trên sông Sa Đéc - Hình do BH chụp

            Theo ước lệ, nói tới làng quê, trong văn chương người ta hay nói đến lũy tre làng, cây đa, bến đò v.v... Riêng ở miền Nam, làng quê cũng có trồng tre nhưng không có lũy tre. Vì địa giới mỗi làng rộng bao la, làm sao có đủ tre để trồng thành rào, thành lũy. Tre được bà con trồng một vài bụi để dành cho việc cần thiết của nhà nông như làm gọng cày, gọng bừa, làm cộ bò, cộ trâu hoặc đan rổ, đan thúng, đan nia, đan rế, hoặc dùng làm rui, mè, cột, kèo để cất nhà, cất trại v.v... 

          Nhưng bến đò thì có thật, vì miền Nam sông ngòi như mạng nhện, việc đi lại từ nơi này đến nơi khác có khi phải đi qua nhiều bến đò, bến bắc mới tới nơi được. Chẳng hạn muốn đi từ Sa Đéc lên Tân Châu phải đi qua hai bến đò của con sông Cửu Long là đò Vàm Cống (Long Xuyên) và đò Châu Giang (Châu Đốc). Hoặc từ Mỹ Tho muốn về Bến Tre phải đi qua bến đò Rạch Miễu. 

    Nếu từ Cần Thơ muốn qua Trà Ôn phải đi đò dọc từ bến Ninh Kiều chạy thẳng qua Trà Ôn hoặc đi đò dọc xuống chợ Cái Côn rồi từ đây đi đò ngang qua Trà Ôn với khúc sông rộng của sông Hậu Giang với sóng to, sóng lưỡi búa thường trực, rất nguy hiểm. Riêng từ làng này đến làng bên cạnh việc qua đò ngang, đò dọc dường như là một trong những điều không thể thiếu, lúc nào cũng phải ngồi chờ đò, phải xuống đò, phải sang sông dù sông lớn hoặc sông nhỏ. Do đó, hình ảnh ông lái đò, chiếc đò nhỏ, với bến nước có khi đầy lúc nước rong hoặc cạn sát khi nước kém là hình ảnh quen thuộc, thân yêu trong các làng mạc miền Nam, ở đâu cũng có, chỗ nào cũng gặp, không thể tách rời được trong đời sống thường của người nông dân, của cư dân trong làng, của khách phương xa qua lại. 





















 Nhà cửa và bến sông. Hình do BH chụp

    Và cũng chính vì sông rạch chằng chịt, chúng ta đi vào làng mạc miền Nam, nơi nào cũng thấy cầu khỉ với những chiếc nọc tre, những khúc gáo, khúc gòn, khúc sao nối liền bờ bên này với bờ bên kia con sông, con mương, con rạch. Hình ảnh chiếc cầu khỉ với làng mạc miền Nam như hình với bóng không thể tách rời ra được, nó làm cho bức tranh quê thêm hữu sắc, hữu tình.

 Có thể nói đặc tính tổng quát của làng mạc miền Nam là sự trù mật, là sung túc, là vườn cây ăn trái, là đất thổ cư, là một màu xanh của chuối, của dừa, của cau, là một màu vàng của trầu, của hoa vạn thọ trước sân, của bông điên điển ngoài đồng, là hương thơm ngào ngạt của các loài hoa gần gũi thân thiết với người dân quê, với thôn dã như hoa huệ, hoa dạ lý hương, bông trang, bông điệp, hoa cau, hoa bưởi, hoa chanh... Con đường làng như chiếc xương sống đi xuyên từ đầu làng đến cuối làng với hàng rào xương rồng, hàng rào hoa dâm bụt. Dọc hai bên đường là nhà cửa của cư dân. Nhà cửa của cư dân thường cất quay mặt về hướng dòng sông, và cặp mé sông là con đường làng. Và nhà nào cũng có bến sông, có cầu bắc dài ra tới mé nước, cần thiết cho việc xách nước, tắm giặt hằng ngày. 



 






















    Vì là vùng đất thấp, hằng năm mực nước sông Cửu Long dâng cao nên nhà cửa vùng quê miền Nam cũng được xây cất cho phù hợp với mùa nước lên, nước lụt. Thường nhà có sàn cao, lót ván, lợp lá, vách lá. Loại lá lợp nhà được chở lên từ các vùng dưới Chương Thiện,  Rạch Giá, Vĩnh Long, Đại Ngãi, Cà Mau v.v. Nghĩa là từ những nơi đất đai mới bồi, còn hoang dã, chưa trồng được những giống cây ăn trái ở nước ngọt, cư dân ở đó trồng loại dừa nước này lấy lá lợp nhà, lấy trái ăn cũng được, vì trái dừa nước lớn bằng cổ tay, có cơm dừa đặc, màu trắng như cơm dừa xiêm, dừa lửa. Từ nhà này ngăn cách với nhà láng giềng là mảnh vườn cam, vườn mận, vườn xoài, vườn chuối, vườn dừa. Đôi khi đất thổ cư nhiều quá, mà con cháu lại ít hoặc có vợ, có chồng đi tứ tán, nhiều cư dân bỏ hoang cho cây tạp như gáo, sắn, bứa, bần, ngô đồng mọc đầy. Những loại cây này chỉ dùng làm củi trong việc nấu nướng. Có nhiều người tiếc đất bỏ hoang, thường trồng tre, trồng sao, trồng dầu, trồng cây bạch đàn hoặc trồng tràm vào chỗ đất trống như vậy. Những loại cây này rất chậm lớn nhưng hữu dụng, nhất là ở nhà quê có biết bao công việc cần dùng đến. 






















    Từ xa xưa, tổ tiên đã biết dùng ngói, gạch, đá xây nhà với những cột bằng loại căm xe, cà chấc, thao lao, dầu với những ngôi nhà “ba gian hai chái bắc vần” to rộng trên những nền đúc bằng đá cao ráo. Nhưng trải qua các thời kỳ loạn ly, giặc giã, những ngôi nhà ngói đồ sộ này cũng cùng số phận của người dân nông thôn bị tàn phá, đổ nát, tiêu điều. 

    Sau năm 1954, đời sống của người nông dân dần dần ổn định lại, ruộng vườn khai mở lại, việc trồng tỉa, lúa thóc khá rồi, người dân ở thôn quê bắt đầu sửa sang lại, cất lại những ngôi nhà khang trang hơn bằng cây gỗ chắc chắn hơn, sơn phết đẹp đẽ hơn, càng làm cho làng mạc miền Nam tươi mát hơn. Nói như thế không có nghĩa không còn những ngôi nhà nghèo ọp ẹp, lụp xụp bằng lá, bằng tre.

 Nhưng, dù nhà gỗ hay nhà tre đều được chủ nhân gìn giữ vén gọn như câu tục ngữ trong dân gian với nghĩa đen: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. 

Việc quét dọn nhà cửa, ngoài sân trước và sân sau nhà, ngoài đường đi, ngoài vườn đủ để nói lên phong cách của người nông dân, dù quê mùa, dù ít học, dù vất vả việc ruộng đồng, dù bề bộn đủ thứ nhưng vẫn chuộng sự sạch sẽ, trong sáng, đẹp đẽ, văn minh.


No comments:

Post a Comment