Nhìn
lại nền giáo dục của 20 năm miền Nam dễ mà cũng khó. Dễ ở chỗ nếu chúng
ta chỉ nhìn vào những thành quả đạt được của các trường Kỹ sư Phú Thọ,
trường Quốc Gia Hành chánh, trường Đại Học Sư phạm, trường Y Khoa và
ngay cả các trường sĩ quan Hải quân, Không quân và các trường sĩ quan
Thủ Đức và nhất là sĩ quan Đà Lạt.
Đem tâm tình viết lại một số trải nghiệm về 20 năm nền giáo dục miền Nam
“Thầy ơi, thầy khổ đã bao lần?
Mái tóc sương pha đã mấy phần?
Có lắm chiều tà mưa phủ trắng.
Thầy cười tha thứ kẻ vong ân.”
(Nguyễn Duy).
(Trích lại trong bài Từ trường học đi tới Trường đời của Nguyễn Thị Thu Hương, một cựu nữ sinh Gia Long, báo Đi Tới, số 37-38, trang 160, năm 2000).
Lời mở đầu
Nhìn lại nền giáo dục của 20 năm miền
Nam dễ mà cũng khó. Dễ ở chỗ nếu chúng ta chỉ nhìn vào những thành quả
đạt được của các trường Kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia Hành chánh,
trường Đại Học Sư phạm, trường Y Khoa và ngay cả các trường sĩ quan Hải
quân, Không quân và các trường sĩ quan Thủ Đức và nhất là sĩ quan Đà
Lạt.
Càng dễ hơn khi các thành phần ưu tú
nhất của nền giáo dục ấy được gửi đi du học qua sự tuyển chọn của các
học bổng quốc tế, hoặc tự túc mà các sinh viên đã đạt được những kết quả
đáng nể nơi xứ người.
Sau 1975, lại một dịp nữa mà không thể
nào không lưu ý đến yếu tố chính trị, có dịp so sánh với chế độ giáo dục
miền Bắc càng cho thấy có một khoảng cách xa về trình độ chuyên môn của
hai miền.
Sự trội vượt của nền giáo dục miền Nam thật rõ ràng.
Các thành phần di tản sau 1975 và Boat
people lại một lần nữa chứng minh cho mọi người thấy rằng giới các bác
sĩ, dược sĩ, các ngành kỹ sư lại có dịp đọ sức và họ đã trở thành các
chuyên viên trên khắp thế giới.
Sự thành công này với một số đông áp đảo
như thế gây ngạc nhiên cho người bản xứ không ít. Đã có đôi lần khai
tên, Mr. Nguyễn. Nhân viên hỏi thêm, ông là bác sĩ. Lại cười hãnh diện,
“Thưa không”. Thưa tôi cũng có làm nhà thương, nhưng chỉ là y công thôi.
Khuynh hướng của người Việt di tản – hơi
thiển cận – là cho bằng được phải thúc ép con em học bác sĩ, dược sĩ.
Nơi tôi ở có 4 trường Y, nhận mỗi năm trung bình 400 sinh viên. Tỉ lệ
sinh viên Việt Nam trúng tuyển là trên 10%. 40 sinh viên trên tổng số
khoảng 35 ngàn người Việt! 90% kia chia cho 6 triệu dân bản địa! Đó là
chưa kể số sinh viên gốc Việt ở các khoa học về răng, về mắt, về thuốc,
v.v.
Sự thành công chói sáng ấy với tiền bạc
dư thừa làm lóa mắt nhiều người, đôi khi gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc
giáo dục và quan hệ trong gia đình.
Nhưng cái khó để hiểu thực chất nền giáo
dục miền Nam trên căn bản khoa học, dựa trên con số thì hiếm. Tài liệu
duy nhất mà hiện nay còn giữ được và được xuất bản ở hải ngoại là cuốn Sáu năm hoạt động của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa do ông Hồ Đắc Huân sưu tập. Cuốn sách thật quý giá.
Tuy nhiên, cuốn sách chỉ đưa ra được
những con số học sinh, sinh viên ở các cấp từ tiểu học, trung học đến
đại học. trong 6 năm. Nhưng kết quả tốt nghiệp thì lại không có, trừ kết
quả của các trường đào tạo chuyên môn.
Cái khó khăn thứ hai của nền giáo dục
miền Nam là có hai hệ thống giáo dục: Trường công lập và trường tư thục.
Do đà dân số gia tăng, các trường tư ngày càng nhiều so với trường
công. Có một sự chênh lệch rõ ràng về kết quả thi cử như một số dẫn
chứng theo sau.
Trong việc giáo dục việc trồng người nó cũng một phần tương tợ như việc trồng cây.
Trồng thì phải có kết quả. 10 cây trồng thì ít ra cũng có 9 cây cho hoa trái.
Vậy mà số lượng từ 75% đến 80% phần trăm thí sinh tú tài ở các trường tư thi rớt.
Không ai hỏi xem lý do nào đưa đến kết
quả xấu như thế và số phận những học sinh này ra sao? Đây là mối băn
khoăn ám ảnh hầu như suốt quãng đời đi dạy của tôi.
Nếu ở trong một xã hội tân tiến, người
ta sẽ đặt ra vấn đề chất lượng giáo dục đào tạo – đào tạo để làn gì? Đào
tạo cho ai? Và về mặt xã hội dân sự làm thế nào giải quyết công ăn việc
cho những người thi rớt trên? Chuyên môn không có, chưa ra ông mà cũng
chẳng ra thằng, thợ cũng không phải thợ.
Rõ ràng có một lỗ hổng rất lớn trong nền
giáo dục miền Nam. Đào tạo mà không có tính thực dụng, không có chuyển
hướng theo khả năng của người thanh niên. Đào tạo cái đầu mà không nghĩ
đến cái tay.
Đáng lẽ ngay từ khi hết bậc tiểu học đã
phải chuyển hướng một số học sinh học nghề, học kỹ thuật, học làm thợ là
chính, kiến thức chỉ là thêm vào.
Tình trạng lạm phát học sinh trình độ tú
tài thi rớt đáng lý trở thành một gánh nặng cho xã hội thì may thay đã
có một chỗ chứa. Đó là các quân trường từ lính đến hạ sĩ quan và sĩ
quan, do nhu cầu của chiến tranh. Nói một cách thực tế thì đây là những
thành phần hữu dụng và trở thành những người lính nồng cốt, những sĩ
quan ưu tú của quân lực VNCH. Một sĩ quan thì ít nhất cũng có trình độ
kiến thức hết bậc trung học cả về khoa học đến ngoại ngữ. Thật là trong
cái rủi có cái may.
Trên đây là mấy nét phác họa về nền giáo
dục miền Nam. Nền giáo dục ấy tuy nhẹ về phần thực dụng cũng như thể
dục lại nặng về phần trí dục và cũng chú trọng nhiều đến phần đức dục,
nhất là ở những năm tiểu học.
Phải chăng đó chính là những nét đẹp nhất
của nền giáo dục miền Nam?
Phần sau đây, với những kinh nghiệm của chính bản thân tôi vẽ lại chân dung nền giáo dục ấy qua quãng đời đi học và dạy học.
Phần Chính đề
Sự tự trách cứ ở trên nói lên một tấm
lòng còn chút tình con người mà ở đâu còn chút ấy thì tương lai con
người còn được thắp sáng.
Phần tôi đã nhiều lần phản bội thầy như thế nên tôi dễ chia xẻ với 4 câu thơ trên.
Một lần khi tôi chạy xe Lambretta trên
đường Phan Thanh Giản, lúc sắp quẹo vào Ngã Bảy, Lý Thái Tổ, chợt tôi
thấy thầy của tôi dạy Pháp Văn – vẫn áo vét trắng, quần trắng, mũ phớt,
dạy tôi ở trường Họ Saigon dành cho học sinh di cư năm 1956, thầy đang ì
ạch đạp xe giữa buổi trưa nắng. Thầy tôi mặc áo vét trắng, mũ phớt,
giầy tây mà đạp xe đạp- trông nó thế nào ấy! Nó cho người ta có cảm giác
như lỗi thời đến tội nghiệp trong một sự tương phản ‘giấy rách nhưng
vẫn giữ lấy lề’.
Đấy là bức tranh toàn cảnh phần đông
nghề thầy của miền Nam giai doạn 1955-1960. Phần đông các thầy còn đi xe
đạp, nhưng lại mặc áo vét. Chính cái áo vét này nó gây sự chú ý của mọi
người. Cái áo vét đó tượng trưng cho một thời kỳ thoái trào giữa cũ và
mới.
Ta gọi là buổi giao thời vậy.
Trong chuyến tàu chót đó, cái áo vét như
một vật dư thừa cuối mùa, nhận đủ oan trái của lớp người mới. Có lẽ may
ra chỉ có thầy Vũ Hoàng Chương là vẫn có phong thái ung dung ngồi xích
lô đạp đến trường.
Một nghề được coi là cao quý nhất, được
nhiều người quý mến nhất trên lý thuyết, trên sách vở, trong sách Quốc
văn giáo khoa thư, trong các bài học của thầy cô giáo bậc tiểu học.
Nhưng về mặt thực tế xem ra bị bạc đãi nhất.
Hầu như người ta có cảm tưởng làm nghề thầy/cô giáo là đồng thời chấp nhận một cuộc sống đạm bạc. Một thầy, một cô, một chó cái!
Đó là sự thanh cao trong cảnh túng quẫn. Người ta nói như thế. Thầy ở đâu cũng có thể nghèo. Thời nào cũng vậy.
Thời lều chõng đến thời xe đạp.
Thật bất nhẫn, tôi không dám tiết lộ hết những cái nghèo đó ra đây.
Khi vào trường đời, tôi cũng đã gặp khá nhiều đồng nghiệp chấp nhận một cuộc sống mà sự đạm bạc trở thành một thứ đạo đức nghề nghiệp.
Lần ấy, tôi đã không đủ can đảm dừng xe
lại chào thầy lấy một tiếng mà lại vội đi thẳng. Đáng lẽ tôi phải làm
như người xưa, dừng xe lại và thưa,
“Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?”(1)
Hình ảnh thầy dạy Pháp văn gợi nhớ đến
một số thầy khác như thầy Huy Kinh, thầy Nguyễn Phố. Thầy Huy Kinh, đầu
chải tém ra đằng sau, mặt mũi khắc khổ. Thầy luôn luôn trịnh trọng thắt
nơ trong bộ vét trắng, thong thả gác chiếc xe đạp, khóa cẩn thận trước
khi vào lớp.
Mặc âu phục, đi xe đạp là nếp sống văn hóa Tây còn sót lại chăng?
Vào lớp, thầy giảng Kiều thao thao bất tuyệt mà bọn học trò di cư ngỗ nghịch không nghe.
Người ta có cảm tưởng dưới kia không phải học trò mà là ‘Một bầy thú trước bảng đen!’
Sự khao khát truyền đạt, thiện chí có dư
của thầy, thầy giảng mà như thể đang diễn thuyết, sự ăn mặc trang trọng
nghiêm chỉnh của thầy, như vang bóng một thời còn sót lại, đã không
được học trò đón nhận. Giảng mà như một cuộc độc thoại, mình nói mình
nghe! Có cái hoàn cảnh nào bạc bẽo hơn không? Rất may, cái cảnh này
không phải là hoàn cảnh phổ biến.
Tuy nhiên, hình như có một thói quen
giảng bài rất trái sư phạm của một số thầy lớn tuổi. Khi giảng các môn
Việt Văn và môn Sử địa – bị cuốn hút vào dòng tư tưởng – các thầy giảng
như thể diễn thuyết. Người ta không thể diễn thuyết nhiều lần trong một
ngày, trong cả năm. Đây là điều người ta gọi là bán cháo phổi. Dạy riết
đến độ phổi nóng ran lên.
Theo tôi đây là là một đặc điểm rất nên
ghi nhớ lại. Tôi còn hình dung ra được thầy dạy Việt Văn trường Văn Lang
của ông Ngô Duy Cầu hồi mới di cư vào Nam, cổ thắt cà vạt – trời nóng,
hơi người, lớp học mái tôn, quạt mát quạt hơi nóng – người thầy nhễ nhãi
mồ hôi, bất chấp mọi chuyện, thầy vẫn giảng oang oang như chỗ không
người.
Nghĩ lại, các thầy của tôi những năm ấy
sao gian truân thế! Vì cái gì nhỉ? Chẳng lẽ chỉ vì miếng cơm manh áo?
Hay vì nhẫn nại chớ thời cho một vận may chính trị?
Trên thực tế, nghề thầy trong thời diểm
ấy là nơi trú ẩn của nhiều thứ: Chờ thời cũng có, ẩn náu dấu mình cũng
có, dạy học qua ngày cũng có. Người chuẩn bị làm bác sĩ, dược sĩ, luật
sư cũng đi dạy. Chữ đúng nhất trong trường hợp này là vừa đi dạy, vừa đi
học. Vừa cầm phấn vừa cầm bút.
Duyên Anh, Bàng Bá Lân, Trần Bích Lan,
Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Trần Phong Vũ, Phạm Việt Tuyền, Chu Tử và
nhiều người khác. Ai đích thực là người thầy?
Hỏi ra ai cũng có lúc làm thầy.
Thế thì có thể nào phân biệt được nghề
thầy như một cái nghiệp và nghề thầy như một nơi tạm trú? Hay là chỉ có
thầy dạy trường công mới là thầy?
Dù là thầy loại nào, tôi vẫn thương các
thầy này, xót xa cho sự bạc bẽo của nghề dạy học. Vậy mà sau này tôi lại
tình nguyện chui đầu vào như một kẻ đi lộn chuồng.
Thế nào là một ông thầy nhỉ? Tôi sẽ có câu trả lời ở phần sau.
Nhưng tôi có thể nói trước bây giờ là
phần đông những đồng nghiệp của tôi, những người được đào luyện chính
quy, họ xứng đáng là ông thầy. Ít lắm là phần đông thấy họ hiền lành.
Họ có cái phong cách là ông thầy, dù không biết bề trong thế nào.
Và nay, nhìn lại 20 năm miền Nam, tôi
vẫn thấy mình hãnh diện vì đã được học hành, được lớn lên, trưởng thành
trong một môi trường giáo dục tốt đẹp.
Thiển nghĩ, nhiều học trò có món nợ ông thầy trả không hết, Không thầy đó mày làm nên. Ca dao chẳng nói đó sao:
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.”
Kinh nghiệm thứ hai của tôi thì oái ăm hơn.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn không biết phải
đối xử thế nào cho phải. Hồi mới di cư vào Nam, học một trường tư ở Chợ
Lớn là trường Phong Châu, tôi nhớ là lớp 5ème. Tôi học một thầy sử địa,
người Bắc; cả trường chỉ có hai thầy trò lẻ loi là người Bắc. Phần còn
lại cả trường đều gọi cảnh sát là ‘Mã tà’ cả. Thầy trông hiền lành,
nghiêm chỉnh, giảng bài bằng tiếng pháp rất lưu loát. Tôi cứ nghĩ thầy
phải giỏi lắm.
Là học trò di cư khổ lắm. Khổ hơn nữa là
trong lớp chỉ có mình tôi như thế – theo đạo, di cư, học trễ – 18 tuổi
đầu mới ngồi lớp tiếp liên với thầy Trần Văn Quới, cũng là thầy dạy tác
giả Nguyễn Tấn Bi, học trước tôi năm bảy năm.
“Hồi cách đây trên nửa thế kỷ, sau khi tốt nghiệp lớp năm, tức là đậu xong bằng Sơ học yếu lược (Certificat d’Etudes Primaires Complémentaires Indochinoises), học sinh tỉnh Chợ Lớn bọn tôi có giỏi giang cách gì, cũng phải lên một lớp chóp bu cuả bậc tiểu học, bấy giờ gọi là lớp tiếp liên, nói nôm na là lớp dự bị trung học.. […]Thuở đó mà nghe nói tới dân premiere année hay deuxièmer année là ngon quá mạng giang hồ, vì con cái quan quyến, cha chú mới học tới đó chớ còn dân ngu khu đen nhu bọn tôi, là cả cái gì xa lạ lắm. […]Thầy dạy duy nhất cho lớp nầy từ khi mở ra cho đến khi giải tán là Thầy hiệu trưởng Trần Văn Quới, địa phương quen gọi là ông Đốc Quới… Thầy Quới dạy là phải biết. Tiếng Pháp học grammaire kỹ hơn trước. Sử địa cũng lạ hơn trước vì chỉ học lịch sử và địa lý của nước Pháp. Vẽ bản đồ các tỉnh thành của nước pháp giống hình lục giác, tô màu từng tỉnh khác nhau. Nghĩ cũng tức cười, xứ sở mình bao nhiêu tỉnh không biết hết, chỉ biết các tình miền Nam…[…]Năm cuối cùng ở tiểu học, đưọc học với thầy Đốc Quới ai cũng phải nhận thầy là nguời kinh nghiệm, nhiều bản lảnh, và nhất là cái lối giảng bài của thầy thì trời sầu đất thảm lẳm. Có nghĩa là thầy giảng và dịch thật rõ ràng để tránh cho học trò không lầm lẫn khi viết tiếng Tây.”(2)
Vào khoảng sau 1970, tôi có dạy luyện
thi môn triết tại trường Trường Sơn, đường Lê Văn Duyệt. Hiệu trưởng là
nhà văn Nguyễn Sỹ Tế.
Lớp học buổi tối từ 7 giờ đến 10 giờ.
Người học thường là công chức, quân nhân hoặc học sinh muốn học thêm.
Thành phần hỗn tạp. Trình độ cao thấp không biết được. Một bữa nọ, tôi
nhận ra người ngồi ngay đầu bàn ở dãy cuối cùng lại đúng là thầy Sử địa
năm nào của tôi đang ghi ghi chép chép.
Tại sao thầy không kiếm một chỗ ngồi ở
một góc khuất nào kín đáo hơn để tôi không nhận ra thầy? Tại sao thầy
lại vô ý chọn ngồi đầu bàn ngay lối đi lên xuống của tôi?
Tại sao thế? Thầy đặt tôi vào một hoàn
cảnh khó xử. Tôi hầu như không tin vào mắt mình. Nhưng nhìn kỹ lại đúng
là thầy mình chứ không thể nhầm được. Tôi hơi choáng trong nghịch cảnh
thế này. Nhưng thầy vẫn có vẻ thản nhiên ngồi chăm chú nghe tôi giảng.
Giả dụ thầy nhận ra tôi, thầy có tiếp tục đi học nữa không?
Sau này, tôi nghĩ thầy lỡ thời bất đắc
chí phải đi dạy nên nghĩ nay phải có thêm bằng tú tài II để vào đại học?
Kiến thức thầy có thừa, tiếng Pháp của thầy đi chấm thi tú tài II, ban C
cũng dư. Vậy mà thầy ngồi kia. Thầy học tôi được cái gì? Ai dạy ai?
Chắc chắn là thầy không nhận ra tôi. Nhưng chắc chắn là tôi nhận ra
thầy.
Lần này thì tôi không thể nói, “Tôi là Carnot đây.” Tôi phải nói thế nào?
Tôi chỉ thấy hoàn cảnh rất oan trái của một số thầy làm nghề dạy học.
Dáng đứng uẩn khuất của thầy dạy sử địa của tôi không dễ mà thấy được. Cho đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi Thầy là ai?
Nhưng ít ra cũng là cái gương hiếu học đáng quý của người Việt Nam mà thầy tôi là một trong vô số những người ấy.
Nếu được phép nói thì, “Thưa thầy, con vẫn kính trọng thầy.”
Chuyện như thế cũng xảy ra với bạn bè.
Không quan trọng lắm. Lần này, tôi dạy hai lớp luyện thi cho học trò
trường tây tại Trung tâm Cao Bá Nhạ, đường Cao Bá Nhạ để thi tú tài Việt
Nam. Học trò đều là lớp con cái nhà gia thế, có tiền của. Trình độ đồng
đều, có phần ưu thế hơn học trò trường Việt về các môn Anh văn, Pháp
văn và kiến thức tổng quát. Phải chăng học trò trường Pháp có một truyền
thống học đường? Con gái thường mặc áo chemise, quần dài hay mặc đầm,
ít mặc áo dài; tưởng họ ngổ ngáo, xem ra lại tỏ ra lễ phép hơn học trò
nhốn nháo trường tư Việt.
Điều này tôi phải nói thật như vậy. Sự kính nể và chăm chú nhìn rõ trên khuôn mặt học trò.
Tâm tình chúng cũng khác lắm.
Carte chúc Noel, sinh nhật mà ít học trò
trường Việt nào làm. Đón ở cửa lối ra để chào thầy ra về. Đi qua mặt
một học trò lúc vào lớp, có thể có lời chào nhẹ, kín đáo, chào thầy. Hỏi
một thắc mắc chưa hiểu, hỏi một danh từ tiếng Pháp tương đương với chữ
tiếng Việt lúc tan học mà ít khi nào học trò trường Việt chặn thầy để
hỏi. Tôi đã nhận được nhiều thái độ trân trọng như thế. Học trò trường
Việt thụ động hơn hay chăng? Có lần tôi nhận được thư một học trò viết, “Thưa thầy, con thấy tội nghiệp thầy quá, tại sao quần tây của thầy rách gấu mà thầy vẫn mặc.”
Nó hiểu lầm tôi nghèo chắc? Buổi học sau tôi nhìn em ấy, em như thản
nhiên không phải là tác giả bức thư ấy. Nếu có ai thắc mắc, nó viết
tiếng tây hay tiếng việt? Thưa, tiếng Việt.
Sau này, tôi rất hối tiếc không giữ lại những lá thư kiểu này. Nghề thầy có rất nhiều kỷ niệm mà phần lớn là kỷ niệm đẹp cả.
Nhưng trong số học trò ấy, có Đại úy
Hưng, người bạn cùng học với tôi từ Hà Nội và di cư vào Nam, đi lính,
nay có thời giờ học thêm tú tài II. Tôi không nhận ra anh trong đám đông
ấy. Nhiều khi, học trò ngồi dưới, tưởng tôi nhìn, hoặc chú ý tới người
này người kia. Trong nhiều trường hợp, nhất là lớp đông, tôi có nhìn,
nhưng không nhìn thấy ai cả. Phần anh, nhận ra tôi, nhưng không dám xưng
danh tánh. Học được ít lâu, anh mới đủ can đảm gặp tôi. Sau đó, tôi đã
hết lòng chỉ dẫn riêng cho Hưng các đề thi, các chủ đề chính thường được
hỏi trong kỳ thi tú tài II, ban C. Hưng đỗ. Cả hai chúng tôi đều chia
xẻ niềm vui chung đó, trong đó có vợ con Hưng.
Còn nỗi mừng nào hơn. Nghề thầy vui ở chỗ ấy mà người khác không có được.
Cũng lại thêm chuyện lính tráng. Có lần
đi coi thi ở miệt Rạch Giá, có một ông lính để chình ình một trái lựu
đạn trên bàn dọa ai không biết. Mấy cô giáo sợ run lên, lấm lét. Học trò
cũng vậy. Tôi cũng sợ lắm chứ. Nhưng cũng bạo dạn đến gần anh lính nói
nhỏ, “Anh làm ơn cất đi dùm thứ kia không các em nó sợ quá.” Tôi không nhớ là mình có đái ra quần không. Anh nhìn tôi thăm dò và có vẻ thách thức nói, “Lính mà thầy!” Thật ra, tôi có thể lén lén về văn phòng báo cho ông chánh chủ khảo Hội đồng giám thị. Vài phút sau, quân cảnh sẽ tới.
Quân cảnh vào thì có thể lớn chuyện có
thể có án mạng không chừng. Ít nữa thì anh lính đáng thương cũng bị còng
tay với những ngày trọng cấm.
Nói không được, tôi lặng lẽ bỏ ra ngoài
hành lang nhìn trời, nhìn đất, đứng ì ra đó. Cho đến bây giờ, tôi vẫn
không hiểu tại sao tôi lại ứng xử thụ động như vậy.
Anh lính ngồi chán không dọa ai được, cất lựu đạn, nộp giấy trắng, rồi thong thả bỏ thi ra về.
Anh lính ấy không hiểu có kịp về khoe
với người tình bữa tối đó không? Anh vừa dọa được một tên thầy giáo chết
nhát, mặt hắn xanh như tầu lá, miệng run lẩy bẩy xin anh cất lựu đạn
đi.
Biết đâu một viên đạn vô tình nào đó cất anh đi nhẹ nhàng. Đời lính mà thầy.
Tôi nhận tôi là một thằng thầy giáo chết nhát, còn anh, giờ này anh ở đâu?
Thầy giáo đôi khi đặt tình người trên cả nguyên tắc. Chắc là như thế.
Cả đời đi coi thi, nếu động tý bắt học
trò gian lận thì sợ không có đủ giấy để ghi. Chỉ có một lần cấm thi (năm
đó thôi) một em nữ sinh ở Phan Thiết một cách bất đắc dĩ, ngoài ý muốn.
Vậy mà lòng vẫn ân hận. Tát một em nữ sinh ở một trường tư Khiết Tâm
trong lúc nóng giận. Làm sao quên? Mắng một em nữ sinh trường Văn Hóa,
đường Gia Long, “Trông cô cũng xinh xắn sao mà ngu thế.” Chuyện
nhỏ như thế mà cũng không quên thì là nghĩa lý gì? Đó là hơn 50 năm
trước; Ứng xử đó ngày nay ở xứ này chắc phải đi tù hay it nhất cũng phải
trả lời trước ban Giám hiệu hay Hội đồng học chính.
Rất may, trong nhiều năm dạy trường công, tôi chưa có dịp mắng một em nữ sinh nào cả.
Làm thầy mà không có cái tình người thì không nên chọn nghề thầy.
Nghề thầy còn có một thử thách lớn lao – thử thách suốt đời – mà tôi tạm gọi là Hành lang của sự thử thách (Corridor de la tentation:
lấy lại một ý của một ông vua muốn kén chọn một người quản lý tốt nên
cho họ đi qua một hành lang hẹp, chứa đầy kim cương vàng bạc. Ai cũng
vội nhét cho đây túi tham. Chỉ có một người không. Và ông này đã được
chọn làm quản lý).
Thầy giáo nào mà đã không trải qua hành lang thử thách này?
Từ trường học đến trường đời là một bước
nhảy. Và sự chuẩn bị cho bước nhảy là một điều không thể thiếu được. Ai
chuẩn bị cho bước nhảy quan trọng và thiết thân ấy? Thưa trường học với
thầy cô giáo, uốn nắn răn đe, nhẹ tay cũng có, khắt khe cũng chẳng
thiếu trong suốt mười mấy năm, hết thầy cô này đến thầy cô khác.
Mỗi ngôi trường với thầy cô giáo – từ
mẫu giáo, tiểu học, trung học đến đại học – là một môi trường lành mạnh,
một mối giao cảm đầu đời, giúp người trẻ vào đời.
Và ở xã hội miền Nam, ông Diệm đã quyết tâm coi việc giáo dục là hàng đầu. Tiếp nối nền Đệ nhị Cộng hòa cũng thế.
Chỉ một lần thôi, lần này thôi, những ai
đã từng có hạnh phúc được lớn lên và ăn học ở miền Nam. Hãy tỏ ra biết
điều, cúi đầu cám ơn miền Nam đã cho chúng ta một tuổi trẻ, một sức
sống, một tương lai đầy hứa hẹn.
Ngày hôm nay, nhiều người đã nên ông nên bà, hãy bày tỏ trong thầm lặng cũng được một lời cám ơn mà không lúc nào là thừa.
Và sau đó, hàng loạt giáo sư trẻ ra
trường lan tỏa ra khắp mọi miền đất nước như men trong bột. Đất nước đã
đầu tư đến một phần ba cuộc đời mỗi người tuổi trẻ trong việc đào luyện
với một ý thức kỷ luật cao độ trong các trường công lập trước khi người
trẻ tuổi vào đời.
Xin trích đăng một vài chứng từ của giáo
sư Dương Thiệu Tống, đã một thời như thế, thầy giáo luôn luôn muốn học
trò mình giỏi, nhưng lại khắt khe vô cùng.
Nó cho thấy thầy giáo cho điểm, lời phê rất là ngặt và khó khăn.
Môn quốc văn mà điểm nhất lớp cũng chỉ
có 7 điểm (7 điểm trên 10). Thứ hạng là I trên 38! Ngược lại điểm rất
cao, nhưng lời phê thường chỉ có một chữ, “Được”, ít khi có chữ “Khá”,
nhiều khi là chữ “Thường”.(3)
Và giáo sư DTT đặt ra vài câu hỏi gợi ý:
“Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm ra giải đáp.”(4)
Trong đó giữa thầy-trò có một tương giao
tin tưởng hỗ tương mà ngày nay, tôi cảm nghiệm cho thấy không thể tìm
thấy trong môi trường XHCN được.
Tôi khẳng định không có tin tưởng lẫn nhau, không thể có giáo dục
Sau 1975, những điều tôi nói vừa rồi là có cơ sở. Một nền giáo dục chói sáng của miền Nam đã tắt.
Tôi bắt đầu sợ học trò, nhất là học trò
lớp nhỏ vì chúng vô tình. Tôi bắt đầu đóng kịch. Tôi nhìn xuống đám học
trò như ẩn khuất bóng dáng một tên công an trong đầu chúng!
Vì thế nay điều tôi nghĩ và điều tôi nói ra không phải là một.
Từ nay, cứ coi như xem khỉ dạy người!
Chúng ta trở lại vói các suy nghĩ thuần giáo dục thôi.
Giữa các giai đoạn từ tiểu học lên đại
học thì giai đoạn trung học là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng nhất.
Phần đông học sinh phá ngang, bỏ học hay tiếp tục học lên trên tùy thuộc
vào giai đoạn này vì không qua khỏi rào cản thi tú tài phần một và phần
hai.
Các cô học trò của tôi, như Võ Quách Tường Vy, gọi lớp đệ tứ là năm ‘giao mùa’. Cô Võ Thị Ngọc Dung thì gọi đó là một năm ‘bản lề’. (Xin xem phần trích dẫn ở phần sau). Các cô giỏi thật.
Nhưng tôi xin bổ túc thêm gọi đó là những năm tháng ‘chuyển mình’. Chuyển cả thể xác lẫn tâm hồn.
Các cô không còn như trước nữa.
Có sự giao động của một khủng hoảng tuổi thanh xuân.
Vậy mà các cô cậu nay phải lo âu đối
diện với tương lai trước thi cử! Tuổi thanh xuân mất đi một phần hào
quang quyến rũ của nó vì thi cử.
Rào cản thi cử này đối với tôi là bất
công nhất và lãng phí nhân tài cũng vì nó. Tư tưởng này ám ảnh tôi trong
suốt những năm tháng ấy trong nỗi bất lực mà trong tầm tay, tôi chỉ có
khả năng cho rộng điểm ở các kỳ thi.
Làm thầy giáo, có thể tôi chả có điều gì tự hào về mình.
Chỉ có niềm tự hào nhỏ là lúc đi chấm
thi, lúc tôi phóng tay cho những thí sinh may mắn rơi vào tay tôi, và có
thể nhờ đó họ thi đỗ dưới con mắt nhìn có vẻ khinh miệt của đồng
nghiệp.
Nhưng những điều trình bày ở trên vẫn
chưa có câu trả lời thế nào thì được coi là ông thầy giỏi và được học
trò quý mến và nhớ mãi?
Thầy giỏi, dạy hay, ăn nói lưu loát là một điều tốt, nhưng đủ chưa?
Nhiều thầy dạy hay đã có thể lôi cuốn
được đông đảo học trò và nổi tiếng khắp trường được cả đồng nghiệp nể
trọng. Thầy dạy hay có phải là yếu tố chính giúp học trò thi đậu? Chắc
hẳn là có một phần không nhỏ học trò thi đậu là nhờ thầy dạy hay, dể
hiểu, dễ nhớ.
Làm sao có thể phủ nhận tài dạy học của
anh em các thầy Bùi Hữu Sủng, Bùi Hữu Đột các năm 1955-1960! Thằng ngu
nhất học thầy Bùi Hữu Đột cũng có thể nghuệch ngoạc vẽ bậy được cái
phương trình bậc nhất. Thằng dốt đặc cán thuổng nhất về Pháp Văn học
thầy Bùi Hữu Sủng cũng có thể viết được “Je là tao, tu là mày, Ils là là
lũ chúng nó.”
Thầy Lưu Ngọc Linh, dạy Pháp Văn ban C, sinh ngữ một Chu Văn An là trường hợp độc nhất vô nhị.
Thầy được ông hiệu trưởng nể vì thế nên
đi dạy thất thường bất kể giờ giấc, đến trễ. Nếu tôi còn nhớ. thầy có
nhiều cái chướng. Nhưng mỗi cái chướng của thầy trở thành, “il est unique dans son genre.” Sự độc đáo của riêng thầy.
Đang dạy thầy đòi uống la de! Và học trò
đồng lõa với cái chướng ấy, vội vã cầm tiền đi mua lade về cho thầy.
Sau này tôi cũng học đòi bắt chước những cái chướng ấy mà không xong.
Chưa ai có thể sánh bằng thầy Lưu Ngọc
Linh. thầy nói, thở ra văn chương mà không cần suy nghĩ, không cần cầm
bút. Mỗi câu Pháp Văn thầy nói ra như rót vào tai, học trò vội ghi ghi
chép chép.
Ngựa chứng trong sân trường không phải là học trò mà là thầy.
Từ cách đi đứng, cách ăn mặc, cách hút
thuốc, cách lái xe hơi như một tài tử ciné chứ không phải một ông thầy
đi dạy. Sau này, thầy không dạy nữa và không còn ai nhắc nhở xa gần tới
thầy.
Nhưng cũng đã có một thời, các thầy
giọng tiếng Bắc trở thành những ngôi sao trên vòm trời các lớp luyện
thi, các trường trung học tư thục? Các thầy lớp trước có thầy Ngô Duy
Cầu, thầy Bùi Hữu Đột, Bùi Hữu Sủng, thầy Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh, Các
thầy hái ra tiền.
Lớp trẻ hơn có các thầy Phạm Kế Viêm,
thầy Nguyễn Xuân Nghiên, thầy Nguyễn Văn Phú, thầy Vũ Khắc Khoan, thầy
Trần Bích Lan – Nguyên Sa. Và nhiều thầy dạy toán, lý hóa không nhớ hết.
Nhưng nay ai còn nói chuyện ân nghĩa với các thầy trên? Ai còn để lại
dấu ấn thầy-trò?
Lại còn câu hỏi ai xứng đáng là đệ tử của các thầy trên?
Xin thưa là phần đông các học trò này thường là yếu kém về các môn học này nên cần đến các thầy loại này.
Các thầy trên giỏi thì có giỏi, nhưng mới chỉ là đào tạo chữ nghĩa, xây dựng kiến thức chứ chưa phải là đào tạo con người.
Học trò giỏi đôi khi không cần đến các thầy đó!
Các học trò trường công lập
Thầy trường công và nhất là học trò
trường công thì khác xa về trình độ học vấn so với học trò trường tư.
Một đằng trình độ tương đối đồng đều, có chọn lọc khi thi tuyển vào lớp
đệ thất. Một đằng hỗn tạp, giỏi thì ít mà dở thì nhiều, kỷ luật cũng
kém. Nói chung kém mọi mặt.
Cho nên tỉ lệ thi đỗ ở trường tư chỉ 15% đến 30% tùy trường. Tỉ lệ thi đỗ ở trường công từ 75% trở lên.
Sự đồng đều ấy cho thấy không có nạn
chạy chọt, đút lót để cho con vào đệ thất trường công. Có những gửi gấm
rất con người dù người khó tính đến đâu cũng phải chấp nhận. Như con bác
cai trường, con thầy giám thị. Thú thực, chưa một ai gửi gấm tôi trong
các kỳ thi đệ thất; gửi ai khác tôi không biết, dù chỉ một lần.
Điều đó chỉ ra tính cách nghiêm chỉnh
của các kỳ thi, dù là thi đệ thất. Các kết quả dưới đây tự nó nói lên
điều ấy mà không cần một lời biện minh.
Nhưng ngoài việc học giỏi, đừng quên một
điều không kém quan trọng: Có kỷ luật. Nhờ có kỷ luật mà thầy-trò làm
nên chuyện. Không thuộc bài phải thuộc bài. Không thể lười, muốn lười
cũng không được. Trường nào kỷ luật kém thì việc học cũng xa sút,
Dưới đây xin được nêu ra vài bằng chứng cụ thể.
Trong giai phẩm xuân Gia Long 1968-1969 cho thấy một vài số liệu sau đây:
Kỳ thi tú tài I năm 1968, năm Mậu Thân
có 89,73% trúng tuyển trong tổng số 760 học sinh dự thi, trong đó có 16
thí sinh đậu hạng ưu, 98 đậu hạng Bình và 198 đậu hạng Thứ.
Kỳ thi tú tài phần II năm 1968 có 79,10%
trong tổng số 536 học sinh dự thi, trong đó có 7 đậu ưu, 38 đậu Bình và
114 đậu Bình thứ. (Bình thường thì tỉ lệ thi đậu của tú tài II thường
cao hơn tỉ lệ của tú tài I, vì đã được sàng lọc ở tú tài I như trường
hợp trường Petrus Ký).
Trong số đó, 159 thí sinh đậu Ưu và Bình
trong cả hai kỳ thi được nhà trường thưởng một mề đay bằng vàng tây
trên đó có khắc G&L lồng vào nhau.(5) Bà Trần Thị Tỵ, hiệu trưởng
trường nữ trung học Gia Long, trường nữ lớn nhất Sài Gòn trước 1975;
trong bài trả lời phỏng vấn của một cựu nữ sinh Gia Long, bà Võ Thị Hai,
bà hiệu trưởng cũng nhìn nhận rằng:
“Trường học là nơi phải đạt mục tiêu hàng đầu là giáo dục học sinh, có nghĩa là phải rèn luyện để học sinh có đạo đức, có kỷ luật, có trật tự. Phải có trật tự thì các em mới chú tâm nghe giảng, mới có thể học giỏi được. Và cũng phải rèn luyện để các em đi dần đến ý thức tôn tôn trọng kỷ luật một cách tự giác.”(6)
Nói như thế không có nghĩa là không có
ngoại lệ đáng tiếc ngoài dự liệu của nhà trường và lòng mong mỏi của ban
giám hiệu nhà trường.
Trường Gia Long, vào niên khóa
1971-1972, học sinh lớp 12 C1 có ra một tờ báo Xuân.(7) Chỉ tiếc một
điều, trong số báo Xuân ấy, có một đôi câu được gọi là ‘ranh ngôn’ nhằm
chế diễu các cô giám thị như sau:
“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời giám thị mà thương học trò.”
(Ranh ngôn một)
“Nhỏ không học, lớn làm giám thị.”
(Ranh ngôn hai)
“Ở đời có ba điều đáng tiếc
Một là việc hôm nay bỏ qua
Hai là đời này chẳng học
Ba là thân này lỡ làm giám thị.”
(Ranh ngôn ba).
Ba Ranh ngôn này nói dỡn chơi với nhau
cũng không nên. Vậy mà nó được chính thức đăng trong tờ báo Xuân và sau
đó bị tịch thu và tiêu hủy. Phần mỗi cô trong ban biên tập, học bạ mục
hạnh kiểm với hai con số zéro.
Tôi không biết bài viết này có được đăng
trên Kỷ yếu Gia Long không? Giọng điệu bài viết nay viết lại vẫn giữ
nguyên cái ác ý của mấy chục năm về trước.
Đó là điều không nên thứ hai.
Thầy cô giám thị là khổ, một cổ đôi ba
tròng. Bao nhiêu tiếng ác đổ lên đầu thầy. Giả dụ chỉ vắng giám thị chỉ
một ngày, trường sẽ loạn lên ngay.
Tôi đã từng đi dậy tư nhiều trường. Thầy giáo phải đóng thêm vai giám thị là một nỗi khổ tâm không ít.
Nhất là phần các nữ sinh, phần đức dục trường nào cũng quan tâm kỹ lưỡng. Các nữ sinh phải ăn mặc cho kín đáo nên có việc kiểm soát áo lá. Không có áo trong là không được. Nóng cũng phải mặc. Trước không được và ngay bây giờ cũng có thể không được nữa.
Từ đệ tứ trở lên là các cô đã bắt đầu trổ mã, cứ ngồn ngộn lên. Các cô đi học đâu có phải là dịp trình diễn phái tính?
Các cô hẳn là khó chịu khi từng cô phải đi qua mặt cô giám thị.
Nhưng cô giám thị đã thay mặt nhà
trường, nhất là thay mặt cha mẹ các cô uốn nắn cho các cô vào khuôn
phép, nề nếp cho nên người.
Các cô muốn nên người hay muốn mất nết? Xin thưa với các cô rằng: kỷ luật là xương sống của một nền giáo dục.
Ngay tại các nước tiên tiến như bên này thì cha mẹ có tiền đều muốn gửi con vào những trường có kỷ luật nghiêm minh.
Và đây là một câu chuyện ám ảnh khôn
nguôi của một thời sinh viên. Tôi xin kể lại để thầy rằng ngoài cha mẹ,
các thầy cô giám thị rất cần cho chẳng nhưng việc học hành mà còn có vấn
đề đào luyện con người.
Chỉ vì một chút bồng bột tuổi trẻ và một
chút khờ dại, cô nữ sinh đáng thương dưới đây đã tuyệt vọng tự hủy hoại
đời mình và gây nõi đau khổ không bút nào tả xiết cho cha mẹ cô.
Ngay bạn bè trong lớp của tôi cũng không
biết chuyện này, cả trường đại học cũng không biết luôn. Tôi nhớ, đó là
năm thứ hai đại học. Tức là năm 1961-1962. Một cô nữ sinh Gia Long, lớp
đệ nhị, phải lòng một ông bạn của chúng tôi. Cô đã dại đột bỏ nhà ra đi
lên Đà Lạt. Khoảng một tuần sau, anh bạn tính mọi cách đưa cô về, gửi
chùa Linh Sơn. Chùa không nhận. Tôi cũng không bao giờ hỏi vào chi tiết.
Anh bạn ấy cũng không thể nào ngờ diễn biến câu chuyện lại bỗng chốc
trở thành bi kịch như thế. Tưởng cô đã ưng thuận trở về gia đình. Trên
đường về đến Định Quán nghỉ ăn trưa. Trong một nỗi tuyệt vọng chỉ một
mình cô biết, cô đã nhảy vào đầu xe. Người lái xe là một bà đầm. Bà quay
đầu xe trở lại Đà Lạt. Trong xe có ba người. Theo anh bạn, hình như cô
chưa chết hẳn, còn ngắc ngoải. Nỗi kinh hoàng làm anh như người mất trí
luôn. Nhưng rồi một người đã chết. Cô gái bất hạnh. Về đến Đà Lạt, anh
bạn cho tôi và hai người bạn khác biết chuyện này để lo liệu, liên lạc
với gia đình cô gái. Tôi cũng không còn nhớ tên cô gái nữa. Khuôn mặt cô
lúc ấy tôi cũng thật sự không dám nhìn. Có nhìn cũng không rõ, vì ánh
sáng mờ mờ của nhà xác. Chỉ biết, đó là nỗi kinh hoàng. Kinh hoàng.
Cho đến nay, hầu như tất cả sinh viên đại học Đà Lạt đã không biết chuyện này, nay nói ra một lần rồi thôi.
Chúng ta hãy tưởng tượng đi, tại nhà xác
ở Đà Lạt, một cô gái còn trẻ măng, áo dài trắng, quần trắng đẫm máu nằm
thõng thượt trên ghế đá nhà xác Chúng tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh
này. Còn cảnh nào đau lòng hơn thế nữa!
Học trò trường Petrus Trương Vĩnh Ký.
Sau đây là thành tích học tập niên khóa 71-72
Ban A: dự thi 77, trúng tuyển 71, với 2 Ưu, “112” Bình (con
số “112” in trong Kỷ yếu Trương Vĩnh Ký 1972-1973 là một lỗi đánh máy.
Số học sinh đậu Bình phải nhỏ hơn 71. Nó có thể là 11, 12 hoặc 2), 17 Bình thứ, tỉ lệ thi đậu là 92%.
Ban B: dự thi 309, trúng tuyển 285 với 1 Tối ưu, 93 ưu, 62 Bình, 92 Bình thứ. Tỉ lệ 93%.
Ban C: dự thi 12, trúng tuyển 10 với 2 Bình thứ, tỉ lệ 83%
– Tú tài II:
Ban A: 101 dự thi, trúng tuyển 101 với 2 Ưu, 10 Bình, 25 Bình thứ, tỉ lệ 100%.
Ban B: 419 dự thi, trúng tuyển 419 với 11 Ưu, 53 Bình, 114 Bình thứ, tỉ lệ 100%.
Ban C: 52 dự thi, trúng tuyển 52, 7 bình thứ, tỉ lệ 100%.(8)
- Thứ nhất có một truyền thống của trường của các thế hệ trước.
- Thứ hai, tỉ lệ đỗ cao trong việc tuyển
chọn ngay từ năm đệ thất trung học đến năm đệ nhị cho thấy có một sự
liên tục đến kinh ngạc. Theo giáo sư Nguyễn Thanh Liêm(9), hằng năm có
6000 học sinh thi tuyển vào đệ thất trường Petrus Ký và chỉ lấy chừng
300-400 em (năm 1964 có 400 học sinh trong 8 lớp đệ thất). Cũng theo gs
Nguyễn Thanh Liêm, trong kỳ thi Trung học đệ nhất cấp cuối thập niên
1950, toàn quốc chỉ có một người đậu hạng Bình thôi, người đó là học
sinh Petrus Ký. Thi bao nhiêu đậu bấy nhiêu, 100% là một tỉ lệ chỉ có
trường Petrus Ký đạt được. (Rất tiếc, tôi không có được số liệu của các
trường Chu Văn An, Trưng Vương).
Điều đó có thể nói thêm là nhà trường từ ông hiệu trưởng đến giáo sư đến các học sinh nằm trong một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tổ chức kỷ luật nghiêm minh giúp học sinh phải cố gắng chăm chỉ học tập.
Nói chuyện người rồi nói chuyện bên lề
của tôi. Tại Nha Trang những năm sau 1960. Tôi còn nhớ kỷ niệm lần đầu
tiên đi dạy. Cổ không đeo thòng lọng. Tay không có cặp, chân không có
giầy. Chữ nghĩa để trong đầu và cứ thế cầm phấn trước bục giảng.
Tôi vẫn là tôi. Cứ thế ung dung vào cổng
trường bằng cửa chính. Bác cai trường chưa biết là ai trông thấy tôi. À
cái thằng nào mà lộng quá, nó dám ngang nhiên vào cổng chính dành cho
giáo sư. Bác quát, “Anh kia, đi lối này.” Bác quát lần thứ nhất, tôi
không biết là quát tôi. Bác tiến gần tôi quát lần nữa. Tôi nghe tiếng
quát, ớ ra, biết là bác quát tôi. Tôi nói ú ớ, “Tôi là giáo sư.” Bác để
yên. Bước lên bục thềm trường, đụng thầy hiệu trưởng và thầy Cung Giũ
Nguyên chứng kiến cảnh đó. Tôi đỏ mặt chào hai người.
Thầy giáo, nghề hay nghiệp?
Ông thầy trường công
Truyền thống triết học Hy-La để lại coi
vai trò ông thầy chỉ là bà mụ đỡ đẻ, còn nhiệm vụ đẻ chính là học trò.
Chân lý này theo tôi đời đời đúng mãi và là phương châm cho bất cứ nền
giáo dục nào. Thầy trường công, ông là ai?
Tỉ lệ thi đỗ cao như trên, phải chăng do
ông thầy dạy giỏi? Chỉ đúng một phần. Nói cho đúng, đó là mối tương
quan hỗ tương: Trò giỏi thì thầy cũng giỏi. Nếu dùng một thuật ngữ trong
triết Thiền luận thì giữa thầy và trò có một khả năng chung là khả năng thấu thị. thầy trò đồng cảm hiểu nhau, bắt được những tín hiệu truyền đi và như thế trò mãi mãi khắc ghi.
Không phải ông thầy nào cũng có được điều này. Nó thật dễ mà cũng thật hiếm hoi.
Trong nhà trường, có nhiều sinh hoạt bên
lề như thể thao, báo chí, cắm trại, viếng thăm, đi Picnic, hội thảo,
v.v., không phải ông thầy nào cũng sẵn sàng đảm nhận. Thường các thầy
trẻ, ít bận gánh gia đình tình nguyện. Dù gì đi nữa cũng phải có lòng.
Vì nó tốn hao nhiều công sức và thời giờ.
Và nếu hỏi, ông thầy nào xứng đáng là thầy thì câu hỏi đã có câu trả lời rồi đấy.
Chính các thầy cô gần gũi học trò, hiểu
học trò và có thể ảnh hưởng trên tâm thức người trể tuổi, để lại dấu ấn
trong tâm trí đến khó quên.
Tôi xin dẫn bằng vài chứng minh cụ thể.
- Thầy Nguyễn Viết Long, trường Ngô Quyền Biên Hòa
Ông là một giáo sư trẻ tuổi, mới về
trường. Gốc Bắc, cử nhân luật, hình như đang tập sự luật sư thì phải.
Ông ăn nói hay, hùng biện, nhiệt tình, cởi mở chừng mực. Mới vào nghề mà
tay nghề như thế kể là vững.
Học trò các lớp đệ tứ do ông phụ trách
đón ông với niềm hân hoan. Nhất là lớp Tứ 3, do ông phụ trách hướng dẫn.
Trò mới lớn, thầy chập chững bước vào nghề với một tấm lòng trong sáng
mà theo thuật ngữ tôi nói ở trên, ông có khả năng thấu thị.
Cho nên, tôi chẳng lạ gì sau này có đến ba học trò, nay đã thành danh, viết về ông.
Ông xứng đáng được như vậy.
Chỉ đáng tiếc, nay trông ông đã khác nhiều so với thủa xưa.(10)
Bài đầu tiên nhan đề Thầy cũ, thầy mới, do Cô Võ Quách Tường Vi – Ngô Quyền khóa 10 – chấp bút.
Tôi đặc biệt lưu ý đến cử chỉ của thầy
Nguyễn Viết Long đã đến thăm gia đình cô khi căn nhà cô ở đã bị cộng sản
pháo kích đổ sụp. Cô nhắc nhở đến những kỷ niệm khó quên khi nhà bị VC
pháo kích chỉ còn là đống gạch vụn. Thầy Long và mấy người bạn của thầy ở
trường kỹ sư Phú Thọ đã đến thăm gia đình và ở lại dùng bữa trưa thanh
đạm. Bếp là ba viên gạch chụm lại, mái che bằng một mái tôn che tạm trên
4 chiếc cọc. Cảnh ấy thật khó quên khi nghĩ đến cộng sản.
Vậy mà ở nơi đây có những tiếng cười và hẳn là chan chứa tình người, giữa ba của Tường Vi và mấy thầy giáo.
Và cô kết luận: “Thầy Long, thầy cũ, thầy mới này lúc nào cũng ở trong tâm hồn của tôi và những học trò của Thầy năm xưa.”
Còn phần thưởng nào lớn hơn cho ông thầy?
Bài thư hai của cô Võ Thị Ngọc Dung nhan đề, Trong và ngoài khung cửa lớp.
Đề tựa này rất là ý nghĩa bởi vì nó nói
lên cái tương giao thầy-trò không chỉ quy định trong lớp học, mà còn
ngoài lớp học. Và chính ở cái không gian ngoài lớp học trong những lần
đi picnic, làm báo, hội thảo, sinh hoạt mới đan kết lên những điều đáng
ghi nhớ nhất. Cô Dung viết:
“Trong năm học này, Thầy khuyến khích chúng tôi làm những bài thuyết trình và đồng hành với lớp chúng tôi trong các buổi picnic ở thảo cẩm viên, Cù Lao phố. Không biết tình cờ hay thế nào mà bất cứ cuộc vui nào của lớp chúng tôi luôn có cặp ba: Thầy Nguyễn Viết Long, thầy Nguyễn Văn Phú và thầy Trần Văn Phúc. Thầy còn soạn thảo kế hoạch chương trình cho lớp chúng tôi kết nghĩa với trường Quốc Gia Nghĩa Tử ở Thủ Đức với những buổi sinh hoạt du khảo thật thú vị.”
Cô Võ Thị Ngọc Dung viết tiếp như một lời kết luận đẹp:
“Dù qua bao biến động. Thầy vẫn là một trong những vị giáo sư mà chúng tôi rất ngưỡng mộ trong các năm học ở Ngô Quyền. Có lẽ sự nhiệt tình, năng động đầy sáng tạo của thầy đã lôi cuốn và làm nảy sinh trong lòng chúng tôi lúc ấy những ước mơ, hoài bão vào đời thật cao đẹp, đầy tự tin và cho đến nay nó đã trở thành động lực, kim chỉ nam đưa đến những thành tựu mà chúng tôi và các học trò ngày xưa của thầy đã đạt được.”
Võ Thị Ngọc Dung – NQ, K11.
Bài thứ ba Thầy với sinh hoạt Hiệu đoàn.
Cô Nguyễn Trần Diệu Hương là người trẻ
nhất trong đám ba người viết. Và cô chú trọng đến những sinh hoạt hiệu
đoàn mà thầy Long tham dự.
Tôi không thể ngờ là đã có những buổi
thuyết trình về các tác phẩm văn học như “Bò sữa gặm cỏ cháy” của Duyên
Anh, “Nói với tuổi hai mươi” của Nhất Hạnh, “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh.
Và nhất là chọn ban khi vào đệ nhị cấp và chọn ngành khi vào đại học. Và
cô kết luận:
“Những gì thầy hướng dẫn, dạy bảo tụi em vẫn còn đó… Dù muộn màng, em xin kính cám ơn thầy. Và mong thầy luôn an nhiên, vui khỏe. Học trò của thầy, các chs Ngô Quyền lưu lạc khắp nôi trên thế giới vẫn luôn luôn nhớ đến thầy.”
Nguyễn Trần Diệu Hương. NQ. K.15.
Tôi có cần viết thêm điều gì nữa không? Thưa chắc là không.
Nếu có thì tôi sẽ viết thế này: Ông đúng
là có phong cách làm thầy giáo, đi đâu cũng có cái cặp. Ông làm những
việc xem ra nhỏ, nhưng lại có tầm vóc lớn. Tầm vóc lớn bởi vì nó có tầm
ảnh hưởng đến cả đời một người tuổi trẻ.
- Thầy Phạm Xuân Ái, giáo sư Pháp Văn trường Petrus Ký.
Trường Petrus Ký vốn có một truyền thống
lâu đời mà mỗi học sinh mỗi ngày khi bước vào cổng trường đều nhìn thấy
hai câu đối khắc hai bên cổng trường:
Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Tây Âu khoa học yếu minh tâm.(11)
Một trong những sinh hoạt ngoài học đường là các kỳ Đố vui để học được thực hiện khi Việt Nam được Mỹ cung cấp trang bị đài truyền hình trắng đen, số 9 dưới thời ông Nguyễn Cao Kỳ.
Chương trình mới mẻ này có sức thu hút
rất lớn đối với học sinh và cả phụ huynh nữữa. Chương trinh do giáo sư
Vũ Khắc Khoan điều khiển và giáo sư Đinh Ngọc Mô phụ trách.(12) Phải nói
ông Đinh Ngọc Mô là cái đinh của chương trình này.
Ông là người có tài và từng thủ diễn vở
kịch Thành Cát Tư Hãn của giáo sư Vũ Khắc Khoan. Sau đó, ông sang Pháp
tu nghiệp thêm về Vô tuyến truyền hình và người thay thế ông trong
chương trình Đố vui để học là giáo sư Cao Thanh Tùng.
Xin trích lại bài viết của tác giả
Nguyễn Việt Dũng viết về người những thầy của mình, cả thầy Phạm Xuân
Ái, và cuộc tranh tài giữa hai trường công uy tín nhất miền Nam.
“Tôi
đã được đọc hồi ký của một số bạn thời còn mài đũng quần trên ghế nhà
trường thế hệ 1964-71. Kỷ niệm đẹp nhất tôi còn giữ lại trong suốt 7 năm
trung học dưới mái học đường Petrus Ký thân yêu có lẽ là chuyến ra quân
chiến thắng vào tháng 2 năm 1971 với trường Chu văn An. Khi học được
nửa năm, Thầy Phạm Xuân Ái (nay đang sống ở Aubervilliers bên Pháp)
thông báo cho tôi biết được chọn cùng với 5 bạn khác đi thi đấu trong
chương trình “Đố Vui Để Học” số 95 (thu hình ngày 14/2/1971, phát hình
ngày 21/2/1971) của đài truyền hình trên băng tần số 9. Đối thủ của
chúng tôi không ai khác hơn là đội Chu văn An. Thầy Ái còn nói thêm có
trường gì ở trên Thủ đức đã thách trường Petrus Ký đấu với trường của
họ, nhưng Thầy Ái nói rằng phía Petrus Ký từ chối, viện cớ là trường lớn
và nổi tiếng của chúng ta không thi thố với trường quận vô danh tiểu
tốt. Thật ra thì Thầy Ái nói riêng với chúng tôi:
‘Tụi bây không bì kịp với bọn mọt sách ấy đâu. Tụi bây vừa học vừa
chơi, còn người ta là dân chủng viện, học ở trường thầy dòng, suốt ngày
cấm cung học hành đấy.’ Giờ thì có dịp tranh tài với trường
Chu Văn An ngang tài ngang sức. Trường Chu Văn An chuyên môn dạy toán ở
đệ nhị cấp (chỉ có ban B thôi). Petrus Ký thắng thế hơn ở chỗ đa dạng,
ban A (Vạn vật) có, ban B (Toán học) cũng có, ban C (Văn chương) cũng có
nốt.
Trong
đội của trường Petrus Ký có 6 ứng viên, 3 thiệt thọ, 3 dự khuyết. Tôi
và Lê Trí Đạt đại diện cho ban B. Còn Lương văn Hy đại diện cho ban C.
Tôi nhớ trong hàng ghế dự bị có Lê Nhơn Lộc học lớp 12A1. Lê Trí Đạt đã
từng thi Đố Vui Để Học trên danh nghĩa cá nhân trước đó và đã trúng giải
cùng với hai bạn khác. (Sau này Lê Trí Đạt đi du học ở Đức, sau lại di
dân sang Mỹ, bây giờ thì bặt tăm). Phía Chu văn An có Vương Đình Điềm
từng đậu hạng tối ưu trong kỳ thi Tú tài 1. Dù sao trong buổi thi đấu
trên “võ đài” kiến thức tổng quát, ít khi thấy Vương Đình Điềm múa môi
khua miệng. Còn tôi thì có tật trả lời liên miên, trật cũng nói, trúng
cũng nói. Bởi vậy, dù lúc đầu chúng tôi dẫn trước trường Chu văn An với
tỷ số 40/20, nhưng vì chúng tôi trả lời sai hơi nhiều nên giữa chừng
(phút thứ 15) chúng tôi bị qua mặt với tỷ số 53/77. Người điều khiển
chương trình là Cao Thanh Tùng lại nói là “Petrus Ký rượt gần kịp Chu
văn An”. Chỉ 5 phút sau, chúng tôi qua mặt trường Chu văn An trở lại với
tỷ số 78/77. Ở phút 25, tỷ số là 118/82. Cuối cùng chúng tôi cũng chiến
thắng: 175 điểm, trường Chu văn An được 117 điểm. Thật hồi hộp khi bị
vượt qua. Thầy Ái, “ông bầu” của chúng tôi, sốt ruột nên lập tức thay
người, cho Lê Trí Đạt học lớp 12B6 ra nghỉ, và đưa Phan Hồng Châu học
lớp 12B4 vào thay. Điều này hơi lạ vì Phan Hồng Châu không có tên trong
danh sách dự bị. Vì thế khi thắng cuộc chúng tôi chia chiến lợi phẩm ra
làm 7 phần bằng nhau, chứ không chỉ chia cho 6 người.
Chúng
tôi vẫn còn biết ơn các thầy cô đã góp phần đào tạo chúng tôi kỹ lưỡng.
Tôi còn nhớ trước khi ra quân, thầy Phạm Xuân Ái, thầy Phạm Ngọc Đảnh
(từng sống ở Đức nay đã qua đời), thầy Dương Ngọc Sum (nay ở Mỹ) đã
“quay” chúng tôi trong thư viện ở trường để thử sức. Chúng tôi phải biết
rõ UNESCO, UPI, ILO, WHO, v.v… là chữ viết tắt của các tổ chức quốc tế
nào. Ngoài ra, thầy Đảnh còn hỏi chúng tôi thêm về những chữ viết tắt
tiếng Đức như SS, SA, Gestapo, v.v…
Riêng
tôi thì thường xuyên la cà các thư viện có gắn máy lạnh để nghiên cứu
cá nhân. Tôi thích tra cuốn “Kỷ lục thế giới” (World’s Guinness Book) để
biết sông nào dài nhất, núi nào cao nhất, hố đại dương nào sâu nhất
hoàn cầu, v.v… Tôi thích thám hiểm không gian nên cũng học luôn bản đồ
mặt trăng, nhờ vậy đã trả lời được câu hỏi “ở đâu có miệng núi lửa
Copernic?” “Trên mặt trăng”. Chính xác!
Chúng
tôi trả lời được một câu hỏi về Vạn Vật nhờ thầy Nguyễn Ngọc Nam (từng
sống ở Đà lạt nay đã qua đời): “Tế bào con người có bao nhiêu nhiễm sắc
thể?” “46”. Câu hỏi khiến cả hai đội đều bí là một công thức hóa học nếu
đọc ra thì là tri-ni-trô tô-lu-en tức chất nổ TNT. Thật ra, cho đến lúc
đó chúng tôi chưa học xong chương trình lớp 12. Một câu hỏi khác cũng
về hóa học mà cả hai đội không biết là tên thông dụng của glu-ta-mát
monosodium. Là bột ngọt! Chúng tôi được ông Cao Thanh Tùng, người điều
khiển chương trình, khen là có tinh thần đồng đội cao vì với câu hỏi
“‘Tám tiết’ trong ‘bốn mùa, tám tiêt’ là gì?”, một bạn Petrus Ký đáp:
“Lập đông”. Người khác tiếp: “Lập xuân”. Người này tiếp: “Lập hạ”. Một
người khác nói nốt: “Lập thu”. Rồi: “Xuân phân”. Rồi: “Hạ chí”. Người
khác tiếp: “Thu phân”. Cuối cùng: “Đông chí”. Như vậy ba người chúng tôi
thay phiên nhau trả lời thay vì chỉ có một người giành nói hết.
Chúng
tôi còn phải cám ơn thầy Lê Bá Kim dạy môn công dân giáo dục đã cho
chúng tôi biết Proud’hon người Pháp đã nói câu: “Tư sản tức là ăn cắp”,
nhờ đó chúng tôi đáp được câu hỏi này ghi thêm điểm số cho đội Petrus
Ký.
Dù
sao, chúng tôi chịu thua trước câu hỏi toán học về ma phương (hình
vuông 16 ô, 12 số có sẵn, và 4 số kia phải tìm). Vì hồi hộp nên chúng
tôi đã quên đó chỉ là vấn đề giải một hệ thống phương trình 4 ẩn số gồm 6
đẳng thức bậc nhất!
Dù
sau, nhờ có các thầy dạy toán của các lớp 12B (Vũ Đình Lưu và Lê văn
Đặng) mà chúng tôi trả lời được câu hỏi: “Ai đã phát biểu những câu này:
(1) Qua hai điểm trong mặt phẳng không có đường thẳng nào đi qua, (2)
Qua hai điểm trong mặt phẳng chỉ có một đường thẳng đi qua. và (3) Qua
hai điểm trong mặt phẳng có hai đường thẳng đi qua”. Người thứ nhất là
Riemann người Đức, người thứ hai: Euclid người Hy Lạp, và thứ ba: nhà
toán học Nga Lobachevsky.
Thôi,
không cần nói gì thêm nữa. Giờ đây đã có phần ghi âm. Muốn biết thêm,
chỉ cần nghe lại toàn bộ chương trình 30 phút dưới dạng MP3. Vậy là 3
chàng ngự lâm pháo thủ PK71 đã tái xuất giang hồ sau 45 năm: Lương văn
Hy đang sống ở Toronto, Canada; Phan Hồng Châu đang sống ở Texas, Hoa Kỳ
và Nguyễn Việt Dũng đang sống ở Biên Hòa, Việt Nam.”(13)
Mẫu người thầy
Qua nhưng mẫu người thầy trên, tôi tạm chia ra có 3 mẫu người thầy.
- Cô Trần Thị Tỵ, mẫu người thứ nhất. Bà là Hiệu trưởng trường nữ trung học Gia Long.
Có thể nói về bà vì đã gặp trong dịp tôi là giám khảo kỳ thi tú tài II, Ban C mà bà là chánh chủ khảo.
Nhớ lại, bà là một phụ nữ độc thân,
nhưng lại không có cái bề ngoài xã giao như thường tình. Bà không có
thói quen nói cười, giả lả xã giao với người này người kia. Bà cho mọi
người thấy: bà chỉ có công việc và trách nhiệm.
Cái bề ngoài lịch sự, ăn nói chừng mực,
vừa đủ. Nhưng thật sự bên trong cứng rắn trong công việc và không ai có
thể trách cứ bà điều gì. Tinh thần trách nhiệm cao ấy hẳn làm nhiều
người nể phục. Học trò hiểu biết thì phải kính mến bà, trân trọng bà.
Nhưng điều tôi vẫn chưa hiểu là một người phụ nữ như bà, làm thế nào bà đã có thể điều hành một trường học dưới mái trường XHCN?
Sau khi trích dẫn bài viết này, tôi nhận
ra phong cách của thầy Nguyễn Viết Long và thầy Phạm Xuân Ái là hoàn
toàn trái ngược nhau.
- Thầy Nguyễn Viết Long, mẫu người thầy thứ hai
Thầy
Long là mẫu người trẻ năng động, lý tưởng và đi sát với học sinh ở các
lớp đệ tứ. Mẫu mực ấy rất thích hợp cho các học sinh mới lớn lên. Và ông
Hiệu trưởng có mắt lắm nên đã trao trách nhiệm Hiệu đoàn phó cho ông.
- Thầy Phạm Xuân Ái, mẫu người thầy thứ ba
Tôi không có cái may mắn được biết thầy
Ái. Nhưng qua cách mô tả của học trò, tôi hình dung ra được một ông thầy
vừa nghiêm nghị, vừa khôn ngoan tùng trải, vừa chững chạc và thân mật
với học trò như cha-con.
Thầy Phạm Xuân Ái, già dặn hơn, hiểu đời
và nhất là hiểu học trò hơn ai hết. Ngôn ngữ giao thiệp giữa thầy trò
họ cũng thân mật và gần gũi hơn. Tôi thích thú lối xưng hô giữa thầy trò
họ. Thầy Phạm Xuân Ái điều khiển không phải học trò đệ tứ mà lớp đệ
nhất sắp lên đại học.
Qua một vài chút phác họa của học trò
thầy, sự già dặn của thầy thật đáng nể. Tôi thích nhất đoạn văn viết
thầy từ chối cho những con gà của mình đối đầu với một trường thầy dòng
nhỏ.
Bề ngoài thầy tuyên bố không nhận lời
thách thức của trường dòng tu. Nhưng với riêng học trò, ông lại nói thật
là tụi bay đấu với họ là thua, vì họ chăm.
“Thầy Ái còn nói thêm có trường gì ở trên Thủ đức đã thách trường Petrus Ký đấu với trường của họ, nhưng Thầy Ái nói rằng phía Petrus Ký từ chối, viện cớ là trường lớn và nổi tiếng của chúng ta không thi thố với trường quận vô danh tiểu tốt. Thật ra thì Thầy Ái nói riêng với chúng tôi: ‘Tụi bây không bì kịp với bọn mọt sách ấy đâu. Tụi bây vừa học vừa chơi, còn người ta là dân chủng viện, học ở trường thầy dòng, suốt ngày cấm cung học hành đấy.’”(13)
Có thể ông chỉ cốt dằn cái hiếu thắng của đám học trò của ông chứ họ vị tất đã thua học trò trường thầy dòng.
Thầy Ái đúng là mẫu người lãnh đạo.
Nói chung thì cả ba mẫu người ấy phản ánh đúng cái tựa đề của cô Dung, Trong và ngoài khung cửa lớp.
Các
thầy nay được học trò nhắc nhở đến nhiều nhất, chính là nhờ những sinh
hoạt ngoài khung cửa lớp. Tôi cũng được nghe học trò vẫn nhắc lại thầy
của họ sau cả nửa thế kỷ rời ghế nhà trường vì những bài học ngoài bài
giảng hàng tuần như thầy Dương Hồng Phong, dậy Anh Văn, đối với học trò
của ông ở Petrus Ký. Ông đã ảnh hưởng đến cả thế hệ học sinh không phải
vì những bài học trong những cuốn “English For Today” mà bằng một câu
tiếng Việt, “Các anh phải đi, và các anh phải về.” “Đi” ở đây là
đi du học, và “Về” là về để xây dựng đất nước. Và thầy Phong luôn nhấn
mạnh chữ “Về” như thể lo rằng học trò của thầy nghe chưa rõ.
Trước khi chắm dứt bài viết này, tôi
cũng muốn nói thêm một chút về một ông thầy dạy ở Đại học mà sự quý mến
của sinh viên cũng không khác gì lắm của giới học sinh trung học.
Tôi có nhận được một cuốn sách từ trong
nước gửi ra và tác giả Ngô Văn Long, một bác sĩ, có nhã ý tặng tôi qua
trung gian một người bạn của ông.
Ông viết về bạn bè trường Y Khoa của ông
vào cuối năm 1975. Nhưng trong dòng chia xẻ giữa bạn bè, ông đã dành ít
trang để nói về người thầy của ông và đám bạn bè: Thầy Hoàng Tiến Bảo
đã mất ngày 20-1-2008.(14)
Nhan đề bài viết là Nhớ thầy.(15)
“Không thiếu gì những giáo sư y khoa nổi tiếng lỗi lạc cả một thời. Nhưng chính sự gần gũi với học trò đã tạo ra sợi dây liên lạc hữu cơ. Với thầy, chúng ta bao giờ cũng có những tình cảm thật gần gũi, như một người cha, dù đối với việc học hành bao giờ thầy cũng rất nghiêm ngặt, đúng quy tắc… thầy như một tấm gương. Từ cách làm việc, cách sống, tình yêu thương đối với học trò, sự tận tụy, óc hài ước, sự thông minh.”
Vài dòng đóng lại
Nhìn lại 20 năm giáo dục miền Nam, một
thời gian quá ngắn, nhưng lại để lại một di sản quá lớn. Hàng triệu học
sinh các cấp đã hưởng thụ được một nền giáo dục nhân bản để thành người
hữu dụng.
Họ có thể sau này trở thành một người lính ngoài mặt trận, một chuyên viên, một người lãnh đạo thì cái cội nguồn giáo dục ấy vẫn giúp họ trong khi thi hành trách nhiệm của họ.
Họ có thể sau này trở thành một người lính ngoài mặt trận, một chuyên viên, một người lãnh đạo thì cái cội nguồn giáo dục ấy vẫn giúp họ trong khi thi hành trách nhiệm của họ.
Nói chung và vắn tắt, đó là một môi
trường giáo dục lành mạnh, ‘sạch’. Nếu cá sống cần biển sạch thì con
người cũng cần một môi sinh, môi trường sạch.
Đây là vốn đầu tư lớn nhất mà chúng ta
được thừa hưởng khi nhìn vào những thành quả lớn lao mà người Việt ở hải
ngoại đã đạt được.
Người trồng lúa đợi một mùa thì có lúa ăn. Nhưng trồng người thì có khi phải chờ đợi nhiều năm!
Đó là kết quả của nghề thầy.
Ngày hôm nay nhìn lại, uống nước nhớ nguồn, lòng ta ở đâu thì trường ta ở đó.
Nguyễn Văn Lục
© 2016 DCVOnlineNếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Mục đích chính của DCVOnline, với trách nhiệm truyền thông độc lập, là cổ xúy dân chủ, nhân quyền và phát triển bền vững cho Việt Nam.”
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh hoạ.
(1) Chuyện ông Carnot nhan đề Học trò biết ơn thầy, trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Sách tập đọc và tập viết) Lớp Dự bị do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận biên soạn. Nha Học chính Đông Pháp xuất bản (1935).
(2) Nguyễn Tấn Bi, “Lớp tiếp liên (cours des certifiés) năm 1949”
(3) Dương Thiệu Tống, “Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại”, trang 289.
(4) Dương Thiệu Tống, Ibid., trang 281.
(5) Bài viết của Võ Thị Hai, Saigon 7-2000, nhan đề Cô Trần Thị Tỵ – Người đã dành cả đời mình cho giáo dục lớp trẻ, đăng trên báo Đi Tới, số 37-38, năm 2000, trang 157.
(6) Võ Thị Hai, Ibid., trang 157.
(7) Tôn nữ Hương Bình, “Từ Ranh ngôn đến ác mộng”, báo Đi Tới, số 83, 2005, trang 89.
(8) Thành tích Học tập niên khóa 1971-1972, Kỷ yếu Trung học Trương Vĩnh Ký, 1971-1972, trang 99.
(9) Nguyễn Thanh Liêm, Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, Saigon, Đi Tới, số 37—38, năm 2000, trang 17.
(10) Xem trang điện tử ngo-quyen.org, phần Một góc thầy cô.
(11) 孔 孟 綱 常 須 刻 骨 / 西 歐 科 學 要 銘 心: hai câu đối của Giáo sư Ưng Thiều có nghĩa là: Ðạo lý cương thường của Khổng Mạnh: nên khắc vào xương / Kiến thức khoa học của Tây Âu: cần ghi vào lòng.
(12) Đinh Ngọc Mô tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Pháp văn Đà Lạt, niên khoa 1965. Sau đó, ông được đi tu nghiệp bên Pháp và chương trình do giáo sư Cao Thanh Tùng diều khiển.
(13) Nguyễn Việt Dũng, “Một Chuyến Ra Quân”, Hội Ái hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc châu, 2016.
(14) Thầy Bảo còn có hai người anh em là giáo sư đại học Hoang Quốc Trương, đại học khoa học và Hoàng Khải Tiệp. Cả hai đều đi tu và làm linh mục.
(15) Ngô Văn Long, “Góp nhặt dông dài”, trang 50.
No comments:
Post a Comment